Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Thanh Miện xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Hà Văn T, sinh năm 1996 tại tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn C, xã X, huyện A, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn B và bà Bùi Thị T1; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2012/HSST ngày 21/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 03 năm tù về tội Cướp tài sản (Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi).

- Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2016/HSST ngày 27/01/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (Chấp hành xong bản án ngày 21/12/2018).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/01/2022 đến 20/01/2022, chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn Đ – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Văn G.

+ Anh Trần Văn T2.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 19 giờ 40 phút ngày 17/01/2022, tại đoạn đường thôn gần khu vực giếng nước thôn H, xã T, huyện T, tỉnh H1; lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Hà Văn T cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người 01 mảnh khẩu trang màu trắng, bên trong có một mảnh giấy màu trắng, trong chứa chất dạng tinh thể rắn màu trắng, T khai là ma túy đá cất giấu để sử dụng. Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng gồm: 01 mảnh khẩu trang màu trắng không có dây đeo, 01 mảnh giấy màu trắng kích thước (5,5x6,5)cm bên trong chứa chất dạng tinh thể màu trắng và xe mô tô biển kiểm soát 98H2-2540. Quá trình điều tra T khai: Khoảng 19 giờ ngày 17/01/2022, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98H2-2540 đi từ nhà đến thị trấn A, huyện A, tỉnh H chơi. Khi đi trên đường, T gặp người bạn nữ mới quen tên C (không rõ lai lịch). C rủ T cùng đi mua ma túy đá để sử dụng, T đồng ý. Sau đó T chở C đi đến khu vực ngã ba thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện T, tỉnh H1 gặp người nam giới không quen biết khoảng ngoài 20 tuổi, T hỏi mua được 01 gói ma túy đá, gói trong mảnh giấy màu trắng, bọc ngoài bằng mảnh khẩu trang màu trắng với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất vào túi áo khoác bên trái đang mặc trên người rồi chở C đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến đoạn gần giếng thuộc địa phận thôn H, xã T, huyện T, tỉnh H1 thì C xuống xe để đi mua đồ, T đứng đợi thì bị lực lượng Công an huyện Thanh Miện kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Kết luận giám định số 194/KLGĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong gói giấy màu trắng được niêm phong trong phong bì ghi thu của Hà Văn T, gửi đến giám định có khối lượng là 0,254g là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại mẫu vật sau giám định gồm 0,219g ma túy loại Methamphetamine, 01 mảnh giấy màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 12 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố, trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn T từ 14 tháng tù đến 17 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/01/2022.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Tịch thu cho tiêu huỷ: 0,219g ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì đựng trong phong bì thư màu trắng được niêm phong và 01 mảnh khẩu trang màu trắng.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

2. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị HĐXX căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

3. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ 40 phút ngày 17/01/2022, tại đoạn đường gần giếng nước thôn H, xã T, huyện T, tỉnh H1; Hà Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,254 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy; Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên đã cố ý vi phạm.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Khi xem xét, quyết định hình phạt, HĐXX nhận thấy:

- Bị cáo không có tiền án, tiền sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Như vậy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, phạm vào loại tội phạm nghiêm trọng, có nhân thân xấu, nhiều lần bị kết án, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. HĐXX cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, đang bị tạm giam nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,219g ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì đựng trong phong bì thư màu trắng được niêm phong và 01 mảnh khẩu trang màu trắng là những vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần bị tịch thu và cho tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển kiểm soát 98H2-2540 là tài sản của bà Bùi Thị T1, sinh năm 1971 (mẹ đẻ bị cáo T) ở Thôn C, xã X, huyện A, tỉnh H, bà T1 không biết bị cáo T sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà T1 là phù hợp.

- Quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người tên C và người bán ma túy cho T nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Văn T 14 (mười bốn) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ: 17/01/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu huỷ: 0,219g ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy màu trắng, 01 vỏ phong bì đựng trong phong bì thư màu trắng được niêm phong và 01 mảnh khẩu trang màu trắng.

Vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. (Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/4/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Miện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về