Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 235/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 235/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 243/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 277/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Vũ Quang L, sinh năm 2000 tại Thanh Hóa; thường trú: Thôn 2 Ph T, xã Qu V, huyện Qu X, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: C07.F04 chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hoàng Duy K, sinh năm không rõ và bà Vũ Thị Th, sinh năm 1979; bị cáo có vợ Hoàng Thị Ch, sinh năm 2001, có 01 con ruột, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/3/2019, bị Công an huyện Qu X, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác, đóng tiền phạt ngày 12/4/2019; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2021; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Nguyễn Đức T, sinh năm 1996 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T Ng, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Đức V, sinh năm 1973 và bà Hoàng Thị D, sinh năm 1975; bị cáo 04 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2021; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

3. Nguyễn Đức S, sinh năm 1997 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T Ng, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; ở: C07.F04 chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Đức N, sinh năm 1963 và bà Trần Thị B, sinh năm 1969; bị cáo 04 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2021; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

4. Võ Thị Diễm H, sinh năm 2000 tại tỉnh Bình Thuận; thường trú: Tổ M, khu phố B, thị trấn Đ T, huyện Đ L, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: C07.F04 chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Võ Văn Ph, sinh năm 1972 và bà Lê Thị D, sinh năm 1978; bị cáo 02 em ruột, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2021; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Xuân M; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 02/4/2021, Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H, đang ở tại nhà C07 – F04, chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L rủ T, S và H góp tiền mỗi người 500.000 đồng đưa cho L để đi mua ma túy về sử dụng thì tất cả đồng ý. H đưa cho L 500.000 đồng, S đưa cho L 500.000 đồng và T chuyển khoản cho L 500.000 đồng. Sau đó, L sử dụng điện thoại di động Iphone 6, số sim 0357113797 điện thoại cho một người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hẹn gặp và mua ma túy tại ngã tư 550, điện thoại xong, L đón taxi đến ngã tư 550 gặp đưa cho người đàn ông số tiền 2.000.000 đồng, người đàn ông đưa cho L 01 gói nilon miệng kéo dính bên trong chứa chất màu trắng. Sau khi mua được ma túy L đón xe taxi quay về chung cư và đưa ma túy cho S, T và H xem, tiếp đó L bỏ khoảng 2/3 số ma túy trong gói nilon ra một cái đĩa, rồi dùng thẻ tín ATM cà nhuyễn ma túy, phân ra từng phần để sử dụng. Số ma túy còn lại L cất giấu trên đầu tủ quần áo trong phòng ngủ. L, T, S và H sử dụng ma túy đến 05 giờ sáng ngày 03/4/2020 thì nghỉ và đi ngủ. Đến 16 giờ cùng ngày, Công an phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, phối hợp với đội Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế - ma túy công an thành phố D A, tiến hành kiểm tra hành chính nhà C07 – F04, chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, qua kiểm tra phát hiện có dụng cụ sử dụng ma túy gồm đĩa bằng sứ, thẻ ATM, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, đồng thời phát hiện trên đầu tủ quần áo có 01 gói nilon chứa chất bột màu trắng, L, T, S và H khai nhận là ma túy, số ma túy này là do L, T, S và H góp tiền mua về để sử dụng.

Công an phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang cùng tang vật 01 dĩa bằng sứ màu trắng, 01 thẻ ATM, 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 gói nilon miệng kéo dính chứa chất bột màu trắng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A 11 chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định số: 163/MT-CP09 ngày 08/4/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H, trong 01 gói nylon miệng kéo dính có khối lượng 1,1096 gam, loại Ketamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 163/MT-CP09 ngày 08/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho L và đồng phạm tại khu vực ngã tư 550, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại cáo trạng số: 264/CT – VKS ngày 26 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Vũ Quang L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bì thư niêm phong bên trong chứa ma túy có khối lượng còn lại sau giám định M=1,0180 loại Ketamine; 01 (một) dĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ ATM, là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A11 là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu vào Ngân sách Nhà nước.

Do bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời nói sau cùng, tuy nhiên trong quá trình điều tra và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của của mình như Cáo trạng đã truy tố đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với các bị cáo Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 02/3/2021, Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H, mỗi người góp 500.000 đồng để mua ma túy về sử dụng . Sau khi đã sử dụng, số ma túy còn lại L, T, S và H cất giấu trên đầu tủ quần áo tại nhà C07 – F04, chung cư S H, khu phố B Đ 3, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Đến 14 giờ ngày 03/4/2021, Công an phường A B, thành phố D A, kiểm tra hành chính phát hiện thu giữ ma túy của L, T, S và H có khối lượng 1,1096 gam loại Ketamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của các bị cáo tàng trữ ma túy có khối lượng 1,1096 gam, loại Ketamine, mục đích tàng trữ để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số:

264/CT-VKS ngày 26 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn nên không xác định là tội phạm có tổ chức, cụ thể: Bị cáo L là người khởi xướng và cùng với các bị cáo khác góp tiền đi mua ma túy về cùng sử dụng chung.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, tuy nhiên các bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 bì thư niêm phong bên trong chứa ma túy có khối lượng còn lại sau giám định M=1,0180 loại Ketamine; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ ATM là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A11 là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu vào Ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho L và đồng phạm tại khu vực ngã tư 550, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Quang L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2021.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Diễm H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong, ngoài bì thư ghi chữ 163/MT-PC09, bên trong chứa ma túy có khối lượng còn lại sau giám định 1,0180 loại Ketamine; 01 (một) dĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ ATM.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 01 (một) điện thoại di động Iphone 6, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A11. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/7/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D A với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D A).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Vũ Quang L, Nguyễn Đức T, Nguyễn Đức S và Võ Thị Diễm H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp./

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 235/2021/HS-ST

Số hiệu:235/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về