TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH HT
BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K và điểm cầu trại tạm giam CĐ, Công an tỉnh HT xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 21/2020/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/XXHSST – HS, ngày 23/3/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Nhật D; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không.
Sinh ngày 03 tháng 9 năm 2004, tại xã KH, thị xã K, tỉnh HT; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn BH, xã KH, thị xã K, tỉnh HT; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; con ông: Phạm Văn Đ; sinh năm 1973; con bà: Trần Thị Thu H; sinh năm: 1976; vợ, con: Chưa có; tiền án; Tiền sự: Không; biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Phạm Nhật D bị tạm giữ từ ngày 29/11/2022, đến ngày 06/12/2022 áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HT cho đến nay.
(Bị cáo có mặt tại phiên toà)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn V – sinh năm 2001; nơi cư trú: Thôn BH, xã KH, thị xã K, tỉnh HT; nghề nghiệp: Lao động tự do (Vắng mặt)
Bà Trần Thị Thu H – sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn BH, xã KH, thị xã K, tỉnh HT; nghề nghiệp: Lao động tự do (Có mặt) (Có mặt)
Ông Nguyễn Văn K – sinh năm 1969; nơi cư trú: Thôn BH, xã KH, thị xã K, tỉnh HT; nghề nghiệp: Lao động tự do (Vắng mặt)
Ông Nguyễn Duy T– sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn QI, xã K1, huyện K, tỉnh HT; nghề nghiệp: Lao động tự do (Vắng mặt)
Những người tham gia tố tụng khác
Người chứng kiến:
- Ông Lê Ngọc T– sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn TG, xã KG, huyện K, tỉnh HT. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội Dng vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 09 giờ 45 phút ngày 29/11/2022, tại quán cà phê Nhà Quê, thuộc địa phận thôn TG, xã KG, huyện K, tỉnh HT, Tổ công tác Công an huyện K, tỉnh HT phối hợp với Công an xã KG, huyện K, tỉnh HT phát hiện Phạm Nhật D có biểu hiện nghi vấn, nên kiểm tra hành chính. Sau khi thấy Tổ công tác vào, Phạm Nhật D tay phải đang cầm một bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, vứt xuống dưới gốc cây Lộc vừng, ngay trước cổng quán cà phê Nhà Quê. Thấy Phạm Nhật D có biểu hiện nghi vấn nên Tổ công tác yêu cầu Phạm Nhật D nhặt bao thuốc lá lên kiểm tra. Sau khi nhặt bao thuốc lên, Phạm Nhật D khai nhận bên trong bao thuốc lá Thăng Long, có gói ni lông chứa tinh thể màu trắng, đục là ma túy đá, D mua của một người đàn ông tên T, ở xã KD, huyện K, tỉnh HT để nhằm mục đích sử dụng.
Quá trình điều tra, Phạm Nhật D đã khai nhận: Phạm Nhật D là đối tượng thường xuyên sử dụng ma túy, nên vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 29/11/2022, D sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, bên trong gắn sim điện thoại số 0971.347.X, gọi vào số điện thoại (D không nhớ) của một người đàn ông tên là T, ở xã KD, huyện K, tỉnh HT, hỏi mua 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) ma túy đá về sử dụng thì T đồng ý bán và hẹn D đến quán cà phê Nhà Quê, ở xã KG, huyện K lấy ma túy. Sau khi gọi điện xong, Phạm Nhật D gọi điện thoại cho Nguyễn Minh C, sinh năm 2004, trú tại thôn BH, xã KH, thị xã K, (Bạn với D) rủ C lấy xe mô tô đến chở D đi chơi, C đồng ý, lấy xe mô biển kiểm soát 38K1- X đến chở D đi. Sau khi Nguyễn Minh C đến, D điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Minh C ngồi sau và nói với C đi với D có tý việc. Khi đến vòng xuyến giao nhau với đường 70, thôn DT, xã KD, huyện K thì D dừng xe mô tô lại, đưa điện thoại của D cho C chơi điện tử và nói với C xuống xe chờ D đi có tý việc riêng rồi quay lại đón sau, nên C xuống xe còn D điều khiển xe mô tô đến quán cà phê Nhà Quê gặp T để mua ma túy. Khi đến quán cà phê Nhà Quê, D đi lên tầng hai của quán gặp T, đưa cho T 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và nói với T còn thiếu 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), chiều D thanh toán, T đồng ý bán và chỉ cho D dưới chân ghế cạnh bàn uống nước có một bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong chứa ma túy. D đi lại cầm lấy ở tay phải rồi đi xuống tầng một để về, khi ra đến cổng quán cà phê Nhà Quê thì bị Tổ công tác của Công an huyện K, tỉnh HT phối hợp với Công an xã KG, huyện K, tỉnh HT phát hiện, bắt quả tang.
Tại bản Kết luận giám định số 1068/KL-KTHS, ngày 02/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HT kết luận: Chất tinh thể màu trắng đục dạng tinh thể rắn đựng trong 01 gói ni lông trong suốt, kích thước (5,7x4)cm gửi giám định là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,7655 gam (Không phẩy bảy sáu năm năm gam). Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh Mục II.C,STT 247, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
+ Vật chứng thu giữ đã xử lý:
- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCTTER, màu xám, đen, cam, biển kiểm soát 38K1-X, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong. Thu của Phạm Nhật D, đã trả lại cho chủ sỡ hữu Nguyễn Văn V.
+ Vật chứng không thu giữ được:
- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, bên trong gắn sim điện thoại số 0971.347.X. Khi ra đến vòng xuyến giao nhau với đường 70, thôn DT, xã KD, huyện K, Phạm Nhật D đưa cho Nguyễn Minh C chơi điện tử, sau đó D bị bắt C đã bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Hiện nay ông Nguyễn Văn K (Bố của C) đã bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của chị Trần Thị Thu H chủ sỡ hữu.
+ Vật chứng thu giữ chưa xử lý:
- 01 (Một) phong bì thư có dòng chữ “CÔNG AN TỈNH HT, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ’’đã niêm phong, bên trong phong bì có chứa một gói ni lông trong suốt có chứa 0,7405 gam (Không phẩy bảy bốn không năm gam) ma túy là Methamphetamine, sau khi đã lấy mẫu giám định, không hoàn lại và một vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long, thu của Phạm Nhật D.
Các vật chứng chưa xử lý nói trên, nay chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện K để xử lý theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội Dng bản Cáo trạng.
Tại bản Cáo trạng số 25/CT- VKSKA ngày 13 tháng 3 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh HT đã truy tố bị cáo Phạm Nhật D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Phạm Nhật D từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 29/12/2022.
Áp dụng điểm a, điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 0,7405 gam (Không phẩy bảy bốn không năm gam) ma túy là Methamphetamine là hàng cấm tàng trữ, lưu hành; một vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long.
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 6, khoản 1 Điều 21;
điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 -12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Toà án kèm theo: Xử buộc Phạm Nhật D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội Dng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan CSĐT Công an huyện K, tỉnh HT, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Chứng cứ: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội Dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, kết luận giám định, lời khai người có quyền, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào hồi 09 giờ 45 phút ngày 29/11/2022, tại quán cà phê Nhà Quê, thuộc địa phận thôn TG, xã KG, huyện K, tỉnh HT, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh HT phát hiện, bắt quả tang Phạm Nhật D đang tàng trữ trái phép 0,7655 gam (Không phẩy bảy sáu năm năm gam) ma tuý là Methamphetamine. Số ma túy trên, Phạm Nhật D khai nhận mua của người đàn ông tên T, ở xã KD, huyện K, tỉnh HT với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) để nhằm mục đích sử dụng.
Hành vi của Phạm Nhật D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Trong vụ án này bị cáo Phạm Nhật D thực hiện hành vi phạm tội một mình, không có đồng phạm.
[3]. Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Phạm Nhật D là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định có lối sống buông thả, ăn chơi, không chịu khó làm ăn nên đã sa vào con đường nghiện ngập ma tuý. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, coi thường kỷ cương pháp luật Nhà nước. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo, nhưng dù xem xét đến đâu thì cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy đình tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, lại nghiện ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[4]. Đới với các vấn đề liên quan:
Đối với người đàn ông tên T là người mà Phạm Nhật D khai đã bán ma túy cho D vào ngày 29/11/2022. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra xác định là Nguyễn DUY T, sinh năm 1995, trú tại thôn QI, xã K1, huyện K; kiểm tra điện thoại của Nguyễn DUY T xác định không có các cuộc gọi đi đến được nhận và tin nhắn từ số điện thoại 0971.347.X liên quan đến mua bán ma túy từ ngày 28/11/2022 đến ngày 29/11/2022. Quá trình triệu tập lấy lời khai cũng như kết quả đối chất với Phạm Nhật D, Nguyễn DUY T khẳng định không hề bán ma túy cho D. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn DUY T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau.
Đối với anh Nguyễn Văn V, chủ sở hữu của chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38K1-X và anh Nguyễn Minh C, là những người để cho Phạm Nhật D sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định việc Phạm Nhật D dùng xe mô tô đi thực hiện hành vi phạm tội anh Vượng, anh C không biết, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đối với chị Trần Thị Thu H chủ sỡ hữu chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, bên trong gắn sim điện thoại số 0971.347.X, là người để cho Phạm Nhật D sử dụng điện thoại liên hệ mua ma túy. Quá trình điều tra xác định việc Phạm Nhật D dùng điện thoại liên hệ mua ma túy, chị Hà không biết, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.
[5]. Vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra cơ quan CSĐT Công an huyện K tỉnh HT thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn V 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCTTER, màu xám, đen, cam, biển kiểm soát 38K1-X, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.
Hiện nay còn lại: 0,7405 gam (Không phẩy bảy bốn không năm gam) ma túy là Methamphetamine, sau khi đã lấy mẫu giám định, không hoàn lại và một vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long, thu của Phạm Nhật D. Hội đồng xét xử xét thấy 0,7405 gam (Không phẩy bảy bốn không năm gam) ma túy là Methamphetamine là hàng cấm tàng trữ, lưu hành; một vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long là công cụ, phương tiện phạm tội của bị cáo, vì vậy tịch thu tiêu huỷ tất cả các vất chứng nói trên, theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[7]. Về quyền kháng cáo: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Điểm a, điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Điều 331, Điều 333; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự, Điều 6, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 -12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Toà án kèm theo;
Tuyên bố bị cáo: Phạm Nhật D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Xử phạt Phạm Nhật D 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 29/11/2022.
Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ 0,7405 gam (Không phẩy bảy bốn không năm gam) ma túy là Methamphetamine là hàng cấm tàng trữ, lưu hành và một vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long.
Về án phí: Xử buộc Phạm Nhật D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc niêm ít bản án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 23/2023/HS-ST
Số hiệu: | 23/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về