Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 23/2023/HS-PT NGÀY 13/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 08A/2023/TLPT- HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 đối với đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 294/2022/HS-ST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1995; giới tính: Nữ trú tại: G V, phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Thôn X, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Phật giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Thanh O và bà Nguyễn Thị Lệ T; Chồng (đã ly hôn); Con: có 01 cháu sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H: Luật sư Đặng Văn P - Văn phòng luật sư Đặng Văn P - Thuộc Đoàn luật sư tỉnh K; địa chỉ: A T, phường T, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 09/5/2022, Nguyễn Thị Thu H gọi vào tài khoản Telegram tên “Sv” của một thanh niên tên “Bito” (chưa xác định được lai lịch) hỏi mua “một hộp mười” ma túy “khay” để sử dụng cho bản thân, nam thanh niên đồng ý bán với giá 10.000.000 đồng. H đồng ý và thỏa thuận sẽ chuyển tiền khi nào nhận được ma túy. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 11/05/2022, “Bito” gửi cho H hình ảnh giấy biên nhận gửi hàng “0969844XXX THANH NHA TRANG” để H biết và đi nhận ở nhà xe P1 ở số A T, phường L, thành phố N. Sau khi đi nhận gói hàng về, H đi về đến trước tòa nhà H ở số D N, phường T, thành phố N.

Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 11/05/2022, tại khu vực trước tòa nhà H ở số D N, phường T, thành phố N, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố N phối hợp với Công an phường T, thành phố N đang đi tuần tra thì phát hiện Nguyễn Thị Thu H có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Hà tự giao nộp tổ công tác 01 hộp giấy được dán kín, một mặt có ghi “0969844065 THANH NHA TRANG” đang cầm trên tay và khai nhận bên trong có ma túy nên tổ công tác mời H về trụ sở Công an phường T làm việc. Tại đây, tổ công tác yêu cầu Hà tự mở hộp giấy mà H giao nộp để kiểm tra, phát hiện bên trong có 01 bịch nylon màu trắng kích thước (7x12) cm đựng 09 bịch nylon màu trắng kích thước (3x4)cm (gồm 08 bịch bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 bịch bên trong chứa chất tinh thể màu trắng) (niêm phong ký hiệu A).

Tại Bản kết luận giám định số 178/GĐ-GT/2022/KL-KTHS ngày 16/05/2022 của Phòng K - Công an tỉnh K kết luận: chất bột và tinh thể màu trắng trong 09 gói nylon của mẫu ký hiệu A gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng 10,1207 gam là loại Ketamine.

Tại bản cáo trạng số 231/CT-VKSNT ngày 01/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại Bản án số 294/2022/HS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa quyết định: Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Vào ngày 03/10/2022, bị cáo Nguyễn Thị Thu H có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có nộp cho Tòa án giấy xác nhận gia đình hoàn cảnh khó khăn, đã ly hôn và đang trực tiếp nuôi con còn nhỏ, ngoài ra bị cáo còn nuôi cha mẹ và em gái đang bị ung thư, bị cáo hiện tại là lao động duy nhất trong gia đình, bị cáo có ông nội được tặng nhiều giấy khen trong quá trình công tác. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo sớm trở về chăm sóc cho con nhỏ và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng :

Đơn kháng cáo của bị cáo còn trong thời hạn luật định nên hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kh á ng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu H :

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã khai nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ, kết luận giám định đã được các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thu thập. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 02 (H1) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn ăn hối cải, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo có nộp cho Tòa án giấy xác nhận hoàn cảnh khó khăn, là lao động duy nhất trong nhà, ông nội bị cáo là cựu chiến binh có nhiều thành tích trong công tác. Xét thấy, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới phát sinh quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của nhà nước mà an tâm cải tạo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thu H, sửa bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu H.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 01 (Một) năm 06 (S) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Bị cáo Nguyễn Thị Thu H không phải nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-PT

Số hiệu:23/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về