Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 15/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15/11/2022, tại Hội trường xét xử A, Tòa án nhân dân huyện C mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Y T, sinh ngày: 30/01/1997, tại tỉnh Đ; nơi cư trú: Thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đ; tôn giáo: Không; dân tộc: Ê Đê; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 0/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông: Y M, sinh năm 1948 (đã chết) và bà H K, sinh năm 1959; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự:Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/8/2022 đến cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Y T: Bà Trần Thị Phương L–Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ Địa chỉ: Số 39 L, Tp B, tỉnh Đ (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Y D, sinh năm 2002

2. Bà H’J, sinh năm 1972 Cùng trú tại: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ (vắng mặt)

* Người làm chứng:

Cháu Y G, sinh ngày 06/11/2010 Trú tại: Thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đ (vắng mặt)

Người đại diện hợp pháp: Ông Y S, sinh năm 1966 (bố ruột) Trú tại: Buôn P, xã E, huyện C, tỉnh Đ (vắng mặt)

- Người phiên dịch tiếng Êa Đê: Ông Y H, sinh năm 1993 Trú tại: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Y T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố về hành vi phạm tội tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 08/8/2022, Y T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47T1-xxxxx (xe mượn của Y D, sinh năm 2002) đi lên khu vực chợ T, huyện C, tỉnh Đ thì vô tình gặp lại người đàn ông quen biết ngoài xã hội tên là “S” (chưa xác định được nhân thân, lý lịch, là bạn bè quen biết với nhau từ khi làm gỗ cao su tại tỉnh Gia Lai). Biết S có sử dụng ma túy nên Y T nhờ S mua ma túy giúp để về sử dụng thì S đồng ý. Sau đó, Y T đưa cho S số tiền 800.000 đồng, thì S hẹn Y T là khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày quay lại khu vực đường đi vào hồ V thuộc xã E, huyện C để lấy ma túy. Đến thời gian trên, Y T điều khiển xe mô tô nêu trên đi đến khu vực đã hẹn, thì S đưa cho Y T 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, kích thước (8,7x5,7x2,2) cm, bên trong có 01 gói nylon màu trắng, kích thước (2,7x2,1) cm có chứa 0,2437 gam ma túy, loại: Methamphetamine. Y T bỏ vỏ bao thuốc lá có cất giấu gói ma túy bên trong vào túi quần bên phải đang mặc và điều khiển xe đi về nhà tại thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đ. Khi về đến nhà Y T rủ cháu Y G (sinh năm 2010, trú tại thôn 5, xã E, huyện C) đi cùng đến buôn E, xã E, huyện C để trả xe cho anh Y D (Y T không cho cháu Y G biết việc đang cất giấu ma túy trong người). Đến khoảng 19 giờ 20 phút ngày 08/8/2022, khi đang trên đường đi trả xe, Y T ghé vào đổ xăng tại cửa hàng xăng dầu H thuộc thôn K, xã D, huyện C thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đ phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của Y T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, bên trong có 01 gói nylon màu trắng có chứa ma túy nói trên; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen; 01 sim điện thoại và 01 xe mô tô biển kiểm soát 47T1- xxxxx.

Tại Kết luận giám định số: 771/KL-KTHS ngày 12/8/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận: chất tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2437 gam, loại: Methamphetamine Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã thu giữ gồm: 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, kích thước (8,7x5,7x2,2) cm; 01 gói nylon màu trắng, kích thước (2,7x2,1) cm, bên trong gói nylon có chứa khối lượng 0,2437 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 357342086714131; 01 sim điện thoại số seri 89840.48000.33895.xxxx và 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nâu, biển kiểm soát 47T1- xxxxx.

- Tại bản cáo trạng số: 21/CT-VKS-HS ngày 26/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Y T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, lời khai nhận tội của bị cáo Y T khai phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu lời luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như cáo trạng số: 21/CT-VKS-HS ngày 26/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, vai trò do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; đồng thời đề cập các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Y T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt bị cáo Y T mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, kích thước (8,7x5,7x2,2) cm và 01 gói nylon màu trắng, kích thước (2,7x2,1) cm, bên trong có chứa khối lượng 0,2229 gam ma túy, loại Methamphetamine (còn lại sau khi giám định).

- Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 357342086714131; 01 sim điện thoại số seri 89840.48000.33895.xxxx (Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C ngày 26/10/2022) - Người bào chữa cho bị cáo Y T, bà Trần Thị Phương L ý kiến: Về điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố đối với bị cáo không có ý kiến. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh bị cáo phạm tội, bị cáo là người dân tộc thiểu số, nên am hiểu pháp luật có phần hạn chế, bị cáo phạm tội lần đầu, trong vùng kinh tế khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo. Bản thân bị cáo ăn năn hối cải, từ trước đến nay chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương, nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà Nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và điều luật áp dụng:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Y T khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện:Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 08/8/2022, Y T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47T1-xxxxx đi lên khu vực chợ T, huyện C, tỉnh Đ thì gặp người đàn ông tên là “S” nhờ S mua ma túy giúp để về sử dụng thì S đồng ý. Sau đó, Y T đưa cho S số tiền 800.000 đồng, đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày Y T tới khu vực đường đi vào hồ V thuộc xã E, huyện C để lấy ma túy. Đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày khi đang trên đường đi trả xe, Y T ghé vào đổ xăng tại cửa hàng xăng dầu H thuộc thôn K, xã D, huyện C thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đ phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của Y T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, bên trong có 01 gói nylon màu trắng có chứa ma túy nói trên. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………………..

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” [3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và gây ảnh hưởng xấu cho xã hội về nhiều mặt, làm tổn hại giống nòi và còn là nguyên nhân làm lan truyền các tệ nạn xã hội, trong đó có đại dịch HIV/AIDS làm ảnh hưởng nghiệm trọng sức khỏe con người mà Nhà nước đang ngăn chặn. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức được ma túy (Hêrôin) (quy định trong Danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ là chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền) là chất có khả năng gây nghiện cao thuộc sự quản lý độc quyền của Nhà nước. Việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển đều phải được sự cho phép của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều bị pháp luật xử lý một cách thích đáng. Nhưng vì động cơ muốn có ma túy để sử dụng thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà bị cáo đã mua ma túy tàng trữ bên trong có chứa khối lượng 0,2229 gam Methanphe tamin để sử dụng. Theo danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định “chất Methanphe tamin là tinh chất không phải tạp chất” nên đủ định lượng để xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến nay tại địa phương chấp hành tốt quy định của pháp luật.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, gia đình thuộc hộ nghèo, do đó Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về hình phạt: Xét thấy tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, qua những phân tích các tình tiết nêu trên của vụ án, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Không có.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 - Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, kích thước (8,7x5,7x2,2) cm và 01 gói nylon màu trắng, kích thước (2,7x2,1) cm, bên trong có chứa khối lượng 0,2229 gam ma túy, loại Methamphetamine (còn lại sau khi giám định).

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C ngày 26/10/2022) - Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nâu, biển kiểm soát 47T1- xxxxx mà bị cao Y T sử dụng để đi mua ma túy, thì quá trình điều tra xác định được đây là tài chung của vợ chồng ông Y W và bà H J cho Y D mượn. Khi Y D cho Y T mượn và Y T sử dụng xe mô tô nói trên đi mua ma túy về để sử dụng thì vợ chồng ông Y W và bà H J không biết. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho bà H J là đúng pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 357342086714131 và 01 sim điện thoại số seri 89840.48000.33895.xxxx thuộc sở hữu của bị cáo Y T, quá trình điều tra xác định được Y T không dùng điện thoại và sim số nêu trên để sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy nên cần trả lại cho bị cáo.

* Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật

 Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Y T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Y T 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành tính từ ngày tạm giữ (ngày 08/8/2022)

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá màu nâu, bên trên có ghi chữ WAR HORSE, kích thước (8,7x5,7x2,2) cm và 01 gói nylon màu trắng, kích thước (2,7x2,1) cm, bên trong có chứa khối lượng 0,2229 gam ma túy, loại Methamphetamine (còn lại sau khi giám định).

- Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động nhã hiệu Nokia, màu đen, số IMEI 357342086714131; 01 sim điện thoại số seri 89840.48000.33895.xxxx (Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C ngày 26/10/2022)

* Về án phí: Bị cáo Y T không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ khi tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về