Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ MỸ HÀO, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 23/2021/HSST NGÀY 04/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04/5/2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã MH, tỉnh HY xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2021/TLST-HS ngày 09/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/HSST-QĐ ngày 20/4/2021 đối với bị cáo:

Trịnh Xuân A, sinh năm 1977.

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 19/26 ngõ LSC, tổ 54, phường VC, quận ĐĐ, thành phố HN. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trịnh Hữu M và bà Nguyễn Thị M1; Vợ con: Chưa có;Tiền án: Ngày 22/6/2017 bị TAND quận BĐ, thành phố HN xử phạt 36 tháng tù về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý, ra trại ngày 03/02/2020; Tiền sự: Chưa có; Nhân thân: Ngày 19/6/1997 bị TAND quận BĐ, thành phố HN xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 05/02/1999 bị TAND quận ĐĐ, thành phố HN xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 07/02/2004 bị Công an quận BĐ, thành phố HN xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 17/6/2005 bị TAND quận ĐĐ, thành phố HN xử phạt 10 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 28/4/2008 bị TAND quận HBT, thành phố HN xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, ra trại ngày 02/4/2010; Tháng 6/2011 bị UBND quận ĐĐ, thành phố HN áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào trung tâm cai nghiệm bắt buộc.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HY; Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thanh H, sinh năm 1973. Địa chỉ: Xóm Th, thôn UN, huyện ĐA, thành phố HN (Vắng mặt).

* Người làm chứng:

- Anh Đỗ Duy Tr, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn AL, xã TT, huyện VL, tỉnh HY

- Anh Dương Thanh S, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn 4, xã QC, thành phố HY, tỉnh HY; Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 25/12/2020 Công an thị xã MH phối hợp cùng Công an phường MĐ, thị xã MH và Đội cảnh sát giao thông số 01- phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh HY phát hiện và bắt giữ Trịnh Xuân A về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.Quá trình điều tra Trịnh Xuân A khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 25/12/2020 bị cáo mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu đen, BKS 29S1-945.45 và điện thoại Samsung A20 màu đỏ đen của chị Hoàng Thanh H để về huyện TK, tỉnh HD giải quyết việc riêng. Khi đi đến đoạn đê NK thuộc phường TT, quận HM, thành phố HN thì gặp một người tên Đ ( không rõ họ, tên đệm và địa chỉ), do cùng là đối tượng sử dụng ma tuý đá nên Xuân A hỏi Đ có ma tuý không xin một ít thì Đ lấy từ trong người ra một gói nilon nhỏ màu trắng bên trong chứa ma tuý, 01 bật lừa ga đưa cho Xuân A. Xuân A kiểm tra biết là ma tuý đá nên cất vào trong túi áo khoác bên phải rồi điều khiển xe đi về HD. Khi đến Km30+800, quốc lộ 5A thuộc tổ dân phố SP, phường MĐ, thị xã MH, tỉnh HY bị tổ công tác số 3, đội cảnh sát giao thông số 01, phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh HY dừng xe vì lỗi chạy quá tốc độ, yêu cầu Xuân A xuất trình giấy tờ xe để kiểm tra. Khi bị cáo lấy ví và giấy tờ trong túi áo khoác bên phải ra thì đã làm rơi túi nilon chứa ma tuý ra ngoài và bị Cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện, thu giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon mày trắng bên trong chứa chất kết tinh dạng cục màu trắng ( niêm phong trong phong bì ký hiệu M); 01 ví giả da màu đen bên trong có 560.000 đồng, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Xuân A, 01 giấy đăng ký xe mô tô Honda Lead màu đen BKS 29S1-945.45 và 01 đăng ký xe mô tô Honda Wave màu đen bạc BKS 29S1-510.02 đều mang tên Hoàng Thanh H. Thu tại túi quần bên trái của Xuân A 01 điện thoại di động Samsung A20màu đỏ bên trọng có 02 sim điện thoại có số thuê bao 0352920785 và 0352576883; 01 xe mô tô BKS 29S1-945.45 và 01 chiếc bật lửa ga.

Tại bản thông báo kết luận số 37/MT-PC09 ngày 25/12/2020, bản kết luận giám định số 37/MT-PC09 ngày 28/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HY kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu M có khối lượng là 0,069 gam là ma tuý loại Methamphetamine. Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định.

Đối với người đàn ông tên Đ mà Xuân A khai đưa ma tuý cho tại phường TT, quận HM, tp HN, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã MH đã thông báo đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận HM, tp HN để giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với chị Hoàng Thanh H khi cho Xuân A mượn xe mô tô BKS29S1- 945.45, 02 giấy đăng ký xe mô tô và 01 điện thoại Samsung để Xuân A làm phương tiện đi lại và liên lạc không biết Xuân A sẽ dùng xe mô tô vào việc phạm tội. Ngày 29/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã MH đã trả lại các tài sản trên cho chị Huyền, chị Huyền đã nhận lại tài sản và không yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 ví giả da màu đen cũ, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Xuân A và số tiền 560.000đồng là tài sản của Xuân A không sử dụng vào việc phạm tội nên bị cáo đã đề nghị xin lại tài sản.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trịnh Xuân A đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bản Cáo trạng số25/CT- VKSMH ngày 09/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH truy tố Trịnh Xuân A về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân nhân dân thị xã MH giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố Trịnh Xuân A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trịnh Xuân A phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân A từ 01 năm 09 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2020 - Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Tịch thu cho tiêu huỷ 01 chiếc bật lửa ga là vật chứng không có giá trị sử dụng Trả lại cho bị cáo Xuân A 01 ví giả da màu đen cũ, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Xuân A và số tiền 560.000đồng là tài sản của Xuân A không sử dụng vào việc phạm tội.

Về án phí: áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Xuân A phải chịu án phí HSST theo quy định.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã MH, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp khách quan với lời khai của bị cáo tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khaicủa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Bản kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 25/12/2020 tại Km30+800, quốc lộ 5A thuộc tổ dân phố SP, phường MĐ, thị xã MH, tỉnh HY, Trịnh Xuân A đã có hành vi cất giấu trái phép trong người 0,069 gam ma túy, loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện. Mặc dùbị cáo chỉtàng trữ 0,069 gam ma túy, loại Methamphetamine nhưng do bị cáo đã có 01 tiền án về tội Vận chuyển trái phép chất ma tuý chưa được xoá án tích, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật, không oan, sai.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người thành niên buộc phải nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý, gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma tuý của Nhà nước; Buộc phải nhận thức được hành vi sử dụng ma túy làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của người sử dụng, là nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội khác, đe dọa nghiêm trọng đến trật tự công cộng, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương, nhưng vì động cơ, mục đích cá nhân đã cố ý phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy, cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo thành người lương thiện và răn đe, phòng ngừa người khác phạm tội.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000 đồng”, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu huỷ 01 chiếc bật lửa ga là vật chứng không có giá trị sử dụng Trả lại cho bị cáo Xuân A 01 ví giả da màu đen cũ, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Xuân A và số tiền 560.000đồng là tài sản của Xuân A không sử dụng vào việc phạm tội.

[4] Về án phí: Bị cáo Trịnh Xuân A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vàođiểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; khoản 1 Điều 38 BLHS; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Xuân Aphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

3. Xử phạt bị cáo Trịnh Xuân A01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2020.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

-Tịch thu, cho tiêu hủy chiếc bật lửa ga màu đen xám có chữ CHUNFA đã cũ.

- Trả lại bị cáo Trịnh Xuân A 01 ví giả da màu đen cũ, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Xuân A và số tiền 560.000đồng.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/4/2021 tại chi cục THA dân sự thị xã MH và Ủy nhiệm chi ngày 09/4/2021 của Công an thị xã MH).

4. Về án phí: Bị cáo Trịnh Xuân A phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm 5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2021/HSST

Số hiệu:23/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Mỹ Hào - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về