Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:

Lê Hữu T, sinh ngày 26 tháng 10 năm 1994 tại tỉnh Tuyên Quang;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Q, xã B, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn B, sinh năm 1968 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1967; vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2021; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà: Phạm Thị T, sinh năm 1967;

Trú tại: Thôn Q, xã B, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 07/6/2021, Lê Hữu T, sinh năm 1994, trú tại Thôn Q, xã B, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang (là người nghiện chất ma túy) một mình điều khiển xe mô tô Honda nhãn hiệu Dream, biển kiểm soát 22H2 - 1687 (xe mượn của mẹ đẻ là bà Phạm Thị T) đến khu vực Suối Khoáng thuộc phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang để tìm mua ma túy đá về sử dụng. Đến nơi, T gặp một người đàn ông trung niên (không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ) hỏi mua được 01 túi nilon màu trắng, mép túi có viền màu xanh, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng với giá 200.000 đồng, T đưa tiền cho người đàn ông trung niên 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và cầm gói ma túy trong lòng bàn tay rồi điều khiển xe mô tô đi về để sử dụng.

Khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, khi T đi về đến đoạn đường thuộc thôn T, xã B, huyện Y thì bị Tổ công tác của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, tỉnh Tuyên Quang kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong lòng bàn tay trái của T 01 túi nilon, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (T khai là ma túy đá, mua về với mục đích sử dụng) và 01 bộ đồ dùng sử dụng chất ma túy để ở cốp xe mô tô. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T theo quy định pháp luật.

Kết quả xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể: Ngày 07/6/2021, tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Lê Hữu T, kết quả (+) dương tính với chất ma túy trong cơ thể.

Tại Kết luận giám định số 544/GĐ-KTHS ngày 12/6/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của Lê Hữu T là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,187g (không phẩy một tám bảy gam).

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-P1 ngày 30 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Lê Hữu T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Hữu T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hữu T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (08/6/2021).

Về hình phạt bổ sung: Quá trình xác minh bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong là Methamphetamine; 01 bộ đồ sử dụng chất ma túy gồm 01 nắp chai nhựa màu xanh có gắn ống thủy tinh một đầu hình cầu và gắn với ống nhựa màu trắng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Lê Hữu T nói lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hữu T tiếp tục thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ ngày 07/6/2021, tại thôn T, xã B, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Lê Hữu T đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,187 gam (không phẩy một tám bảy gam), mục đích để sử dụng. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ quy kết cho bị cáo Lê Hữu T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực, nhận thức được hành vi của mình nhưng đã cố ý coi thường pháp luật. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo bất chấp thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo không những làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của gia đình mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác phát triển, hành vi đó đi ngược lại với chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm mất an ninh chính trị tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt tù thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời để phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử thấy phù hợp cần xử bị cáo Lê Hữu T mức án trong đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong là Methamphetamine; 01 bộ đồ sử dụng chất ma túy gồm 01 nắp chai nhựa màu xanh có ống thủy tinh một đầu hình cầu và gắn với ống nhựa màu trắng.

[8] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo Lê Hữu T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Hữu T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (08/6/2021).

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong, còn nguyên vẹn, mặt trước bì ghi tên “Tang vật vụ Lê Hữu T, giám định ngày 08/6/2021”. Mặt sau bì tại các mép dán có chữ ký xác nhận của ông Âu Văn C – Cán bộ điều tra thuộc cơ quan CSĐT Công an tỉnh Tuyên Quang, ông Lê Hoài V - Cán bộ Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và đương sự Mai Quỳnh P cùng 05 (năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong là Methamphetamine; 01 bộ đồ sử dụng dụng chất ma túy gồm 01 bắp chai nhựa màu xanh có gắn ống thủy tinh một đầu hình cầu và gắn với ống nhựa màu trắng. (Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tuyên Quang ngày 06/7/2021).

Áp dụng: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Hữu T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/7/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2021/HS-ST

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về