TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 224/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 240/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/2021/QĐXXST-HS ngày 06/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 160/2021/HSST-QĐ ngày 16/9/2021, đối với các bị cáo:
1. Tô Thanh Đ, sinh năm 1996 tại Cà Mau; thường trú: ấp Ng, xã T, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: số A đường Đ5, khu phố N, phường D, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: không rõ và bà Tô Hồng R, sinh năm: 1977; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Danh Tr, sinh năm 2000 tại Kiên Giang; thường trú: ấp Đ, xã L, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: số A Nguyễn Trãi, khu phố Nh, phường D, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khơme; tôn giáo: Không; con ông Danh Ch, sinh năm 1967 và bà Võ Thị Th, sinh năm: 1982; bị cáo có 01 em sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Huỳnh Hoàng Ph, sinh năm 2001; thường trú: khu phố A, thị trấn Gi, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 20/4/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Tr rủ Đ góp mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng thì Đ đồng ý, do chưa có tiền nên Đ nhờ Tr ứng tiền ra trước rồi Đ sẽ trả lại sau thì Tr đồng ý. Sau đó, Tr điểu khiển xe môtô Yamaha Luvisa biển số 69E1-382.45 chở Đ đến gần vòng xoay An Phú, phường An Phú, thành phố Thuận An, Bình Dương, đến đây Đ chỉ cho Tr đi vào một con hẻm (không nhớ tên) gần khu vực vòng xoay An Phú. Tr dừng xe đầu con hẻm và đưa cho Đ số tiền 200.000 đồng để Đ đi bộ vào bên trong hẻm gặp một người phụ nữ không rõ nhân thân lai lịch mua 200.000 đồng ma túy thì được người phụ nữ này giao cho một gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Đ cất gói ma túy vào túi quần trước bên phải rồi đi ra nói cho Tr biết đã mua được ma túy, sau đó ngồi lên xe để Tr điều khiển đi về phòng trọ. Khi đi đến trước số nhà 609 đường ĐT 743A, khu phố Chiêu Liêu thì lực lượng Công an phường Tân Đông Hiệp phối hợp với Đội Cảnh sát kinh tế ma túy – Công an thành phố Dĩ An đang tuần tra trên địa bàn phường Tân Đông Hiệp thấy các bị cáo có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng tuần tra yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện trong túi quần trước bên trái của Đ có một gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, cả hai khai nhận là ma túy đá nên Công an phường Tân Đông Hiệp lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập hồ sơ chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An xử lý.
Kết luận giám định số 195/MT-PC09 ngày 29/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 túi nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, khối lượng là 0,2231 gam, loại Methamphetamine.
Vật chứng thu giữ gồm:
+ 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng trọng lượng 0,2231g;
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Luvisa biển số 69E1-38245, số khung 44S108Y052581, số máy 44S1052565.
Cáo trạng số 259/CT-VKS ngày 19 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Danh Tr và Tô Thanh Đ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Danh Tr mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù và bị cáo Tô Thanh Đ mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
*Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Luvisa màu đỏ biển số 69E1-38245, số khung 44S108Y052581, số máy 44S1052565 là xe của anh Lê Huỳnh Hoàng Ph, anh Ph cho Tr mượn xe để đi công việc nhưng không biết Tr sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại xe cho anh Ph.
Đối với bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,1933 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Đ do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau.
Do các bị cáo và người có quyền lọi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa nên không thực hiện phần tranh luận.
Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Tại phiên tòa bị cáo vắng mặt và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt Căn cứ Điều 290 Bộ luật tố tụng Hình sự Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Lê Huỳnh Hoàng Ph vắng mặt không có lý do, tuy nhiên tài sản của anh Ph là chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Luvisa màu đỏ biển số 69E1-38245, số khung 44S108Y052581, số máy 44S1052565 đã được trả lại cho anh Ph, tại cơ quan điều tra anh Ph không yêu cầu gì khác nên căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự Tòa án xét xử vắng mặt anh Ph.
[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường, Biên bản khám xét và Kết luận giám định số 195/MT-PC09 ngày 29/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 259/CT-VKS ngày 19 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.
[4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo Tr là người rủ, chở bị cáo Đ đi mua ma túy và là người cho bị cáo Đ vay tiền để mua ma túy, bị cáo Đ là người chỉ cho bị cáo Tr chỗ bán ma túy.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không
[6] Tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nh một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người nghiện ma túy.
[8] Xử lý vật chứng:
Xét, đối với xe mô tô hiệu Yamaha Luvisa màu đỏ biển số 69E1-38245, số khung 44S108Y052581, số máy 44S1052565 là xe của anh Lê Huỳnh Hoàng Ph, anh Ph cho bị cáo Tr mượn xe để đi công việc nhưng không biết Tr sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại xe cho anh Ph là đúng quy định pháp luật.
Đối với bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,1933 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[11] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Đ do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau.
[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Danh Tr và Tô Thanh Đ phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Danh Tr 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.
- Xử phạt bị cáo Tô Thanh Đ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 195/PC09 chứa ma túy đá còn lại sau giám định có khối lượng/trọng lượng: 0,1933 gam;
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2021).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Danh Tr và bị cáo Tô Thanh Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 224/2021/HS-ST
Số hiệu: | 224/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về