Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 22/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 22/2022/HS- ST NGÀY 16/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16/03/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HS ngày 03/03/2022 đối với bị cáo:

Phạm Thành P (tên gọi khác: không); Sinh năm 2001 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh ; Giới tính: Nam Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch:

Việt Nam; con ông Phạm Hùng P1 và bà Nguyễn Thị L. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: không. Tiền sự:

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPHC ngày 20/8/2020 của Công an xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình xử phạt 750.000đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, P chưa thi hành.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/QĐ-XPHC ngày 08/9/2021 của Công an xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình xử phạt 1.000.000đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, P chưa thi hành.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/12/2021 đến ngày 04/01/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Trọng Đ, anh Ninh Thành H. Những người làm chứng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên buổi chiều ngày 27/12/2021, Phạm Thành P đi xe ôm đi từ nhà đến khu vực cầu chợ thuộc xóm 2, xã H, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Tại đây P gặp 01 người đàn ông không quen biết hỏi và mua được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy trắng, có dòng kẻ với giá 200.000đồng. Sau đó, Pho cầm gói ma túy ở tay trái, đi nhờ xe về hướng thị trấn P, huyện K để tìm nơi sử dụng. Đến hồi 18 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực nghĩa trang thuộc xóm 7, xã Đ, huyện K, P xuống xe định tìm chỗ sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang; thu giữ của P 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy giấy trắng, có dòng kẻ.

Kiểm tra gói nhỏ thu giữ bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định khối lượng là 0,22 gam, ký hiệu M trưng cầu giám định.Tại bản kết luận giám định số 83/KLGĐ-PC09-MT ngày 03/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2166 gam là ma túy, loại Heroine.” Chuyển từ kho vật chứng của Công an huyện K đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện K các vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong ghi số 83/KLGĐ-PC09-MT bên trong có chứa 0,1248 gam Heroine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói niêm phong gửi trưng cầu giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong và 01 vỏ gói nhỏ thu giữ ban đầu để giải quyết cùng vụ án.

Bản cáo trạng số 25/CT-VKS -KS ngày 23 /02/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Phạm Thành P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố trong cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Thành P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Thành P từ 15 ( mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính ngày 27/12/2021.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 BLHS năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ghi số 83/KLGĐ-PC09-MT bên trong có chứa 0,1248 gam Heroine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói niêm phong gửi trưng cầu giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01vỏ phong bì niêm phong và 01 vỏ gói nhỏ thu giữ ban đầu của Phạm Thành P.

+ Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến bào chữa, không có ý kiến tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1] Lời khai tại phiên toà của bị cáo Phạm Thành Pho như nội dung bản cáo trạng còn phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 15 phút ngày 27/12/2021, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và vật chứng thu giữ được 0,2166 gam, heroine đã được xác định tại bản kết luận giám định số 83/KLGĐ- PC09-MT ngày 03/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2166 gam là ma túy, loại Heroine.”. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 05 phút ngày 27/12/2021, tại khu vực xóm 7, xã Đ, huyện K, bị cáo Phạm Thành P có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,2166 gam Heroine để sử dụng cho bản thân Heroin là chất ma túy có số thứ tự 09 thuộc Bảng danh mục I ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

[2] Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi của Phạm Thành P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[ 3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý, sản xuất kinh doanh một số loại hàng cấm. Mặt khác hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ ma túy là mặt hàng nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng và mua bán nhưng vì nhu cầu sử dụng cho bản thân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, bản thân đang có hai tiền sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cai nghiện, học tập thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cũng cần xem xét để giảm một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu nghiện ma túy của bản thân, mặt khác qua xác minh tại chính quyền địa phương bị cáo không có tài sản riêng và cũng không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo khai mua của người đàn ông không quen biết, không biết tên tuổi, địa chỉ và nếu gặp lại cũng không nhận được người này nên Cơ quan CSĐT Công an huyện K không có cơ sở để điều tra, xử lý đối tượng này.

[6] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: căn cứ vào Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau: Đối với 01phong bì chứa 0,1248 gam Heroine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói niêm phong gửi trưng cầu giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong và 01 vỏ gói nhỏ thu giữ ban đầu đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Đây là những vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Thành P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện k, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thành P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Xử phạt: Bị cáo Phạm Thành P 16 (mười sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 27/12/2021.

3.Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của vụ án gồm:

Toàn bộ số ma túy hoàn trả sau khi giám định có khối lượng M = 0,1248 gam Heroin cùng với toàn bộ vỏ bao niêm phong được niêm phong trong một phong bì ghi số 83/KLGĐ – PC09 – MT.

01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ 01 gói nhỏ của Phạm Thành P; 01 mảnh giấy trắng có chữ in.

(Chi tiết vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 2 5/02/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

4. Án phí: Buộc bị cáo Phạm Thành P phải nộp 200.000đ án phí hình sư sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 22/2022/HS-ST

Số hiệu:22/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về