Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 221/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 221/2023/HS-PT NGÀY 06/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 251/2022/TLPT-HS, ngày 06 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo Phạm Xuân Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2023/HS- ST, ngày 29 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Phạm Xuân Đ, sinh năm 2004 tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn 10, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân P và bà Đặng Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2023 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 26/5/2023, Phạm Xuân Đ đến gặp và nhờ cháu Nay Phương D đi cầm cố 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone, loại 8 Plus, màu xám để lấy tiền thì cháu D đồng ý. Cháu D đưa điện thoại di động nêu trên đến Tiệm điện thoại C Mobi ở thị trấn E, huyện E cầm cố được số tiền là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Sau đó, cháu D đưa lại cho Đ toàn bộ số tiền nêu trên, Đ tiếp tục mượn xe mô tô biển kiểm soát 47F1-661.XX, nhãn hiệu SUZUKI, màu sơn xanh-đen-cam của cháu D để làm phương tiện đi lại thì cháu Duy đồng ý. Đức điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47F1-661.XX đi đến nhà anh Nguyễn Duy Đ1 và rủ anh Đ1 cùng đi với Đức đến huyện B, tỉnh Đắk Lắk thì anh Đ1 đồng ý.

Đến khoảng 19 giờ ngày 26/5/2023, Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47F1-661.XX chở anh Đ1 đi đến uống cà phê tại quán Cà phê Thu T1 thuộc thôn HB, xã Ea, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, Đ gặp và đưa cho một người đàn ông (chưa xác định được nhân thân) số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) để mua ma túy về sử dụng thì người đàn ông này nói với Đ ma túy được cất giấu trong 01 (một) bao thuốc lá màu trắng, nhãn hiệu JET đển trên bàn. Sau đó, Đ lấy và mở bao thuốc lá thì phát hiện bên trong có 01 (một) gói nylon trong suốt, có kích thước là (4x7)cm, bên trong có chứa chất ma túy. Khi Đ chuẩn bị rời khỏi quán cà phê nêu trên thì bị Công an huyện B phát hiện, Đ đã ném bao thuốc lá, bên trong có chứa gói ma túy vào hồ nước ở trong khuôn viên của quán cà phê, còn người đàn ông bán ma túy cho Đ đã bỏ trốn. Quá trình làm việc, Đ đã tự nguyện nhặt và lấy từ bên trong của bao thuốc ra 01 (một) gói nylon trong suốt, có kích thước là (4x7)cm, bên trong có chứa chất ma túy, đồng thời giao nộp cho Cơ quan điều tra cùng toàn bộ tang vật.

Tại bản Kết luận giám định số 660/KL-KTHS, ngày 02/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng chứa bên trong 01 (một) gói nylon, có kích thước (4x7)cm được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng là 3,9082 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2023/HS-ST, ngày 29 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Xuân Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 26/5/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 05/9/2023, bị cáo Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung vụ án đã nêu.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Xuân Đ 03 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Tại phiên tòa bị cáo không cung cấp được thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 26/5/2023, tại quán Cà phê Thu T1 thuộc thôn HB, xã Ea, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, Phạm Xuân Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 3,9082 gam loại: Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội.

[2] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 03 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là phù hợp. Bởi lẽ, bị cáo tàng trữ trái phép khối lượng 3,9082 gam loại: Methamphetamine; hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp ông ngoại của bị cáo là Đặng Bá S được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 3, tuy nhiên bị cáo không có tài liệu chứng minh quan hệ nhân thân giữa bị cáo và ông Đặng Bá S. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân Đ, giữ nguyên bản án sơ hình sự thẩm số 27/2023/HS-ST, ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Xuân Đ 03 (Ba) năm tù về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 26/5/2023.

[3] Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 221/2023/HS-PT

Số hiệu:221/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về