Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 216/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 216/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 175/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 242/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN THÀNH T (tên gọi khác: Boy), sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Thuận.

HKTT: khu phố 6, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận và chỗ ở hiện nay: khu phố 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1959) và bà Huỳnh Thị T (sinh năm 1959); Anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con út trong gia đình; vợ: Nguyễn Hoàng Y, sinh năm 1994 (chưa đăng ký kết hôn); có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án: không.

Tiền sự: Ngày 05/8/2021, Chủ tịch UBND phường Đ ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (theo Quyết định số 66a/QĐ-UBND), thời hạn từ tháng 7/2021 đến tháng 10/2021.

Nhân thân:

+ Ngày 25/12/2014, TAND thành phố P xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” (tại Bản án số 238/2014/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/01/2016. Đã xóa án tích.

+ Ngày 29/9/2016, TAND huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tại Bản án số 49/2016/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/6/2017. Đã xóa án tích.

+ Ngày 03/8/2023, TAND thành phố P xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (tại Bản án số 142/2023/HSST).

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 26/6/2023, Nguyễn Thành T đi xe khách từ thành phố P đến khu vực cây xăng ngã ba 46 thuộc huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận gặp 01 người đàn ông tên Tuấn (không rõ nhân thân) hỏi mua 2.000.000 (hai triệu) đồng ma túy Heroine để sử dụng. Sau khi mua ma túy, T cất gói ma túy vào trong túi áo khoác bên phải rồi đón xe khách đi về nhà ở khu phố 7, phường Đ, thành phố P. T đi lên gác lửng lấy một ít ma túy ra sử dụng rồi đổ một ít ma túy vào 01 đoạn ống hút nhựa, hàn kín hai đầu lại, đặt trên nền gác lửng để dành sử dụng. Gói ma túy còn lại T cất vào trong túi áo khoác bên phải.

Đến khoảng 08 giờ ngày 27/6/2023, T lấy gói ma túy trong túi áo khoác đổ một ít vào đĩa sứ rồi cất vào lại túi áo khoác. Khi T đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường Đ kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác bên phải T đang mặc có 01 gói nylon không màu, hàn kín, có nhíp kéo nhựa một đầu, bên trong chứa chất bột dạng rắn và 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng; trên nền gác lửng cạnh vị trí T đang ngồi có 01 đoạn ống nhựa màu vàng, hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất rắn; trên bàn ngay cửa sổ gác lửng có 01 đĩa sứ màu trắng, bên trên đĩa sứ có một ít chất bột màu trắng. Lực lượng Công an đã thu giữ tang vật có liên quan và đưa T về trụ sở làm việc. Quá trình điều tra, T thừa nhận hành vi của mình như nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước khoảng (5x8) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng rắn (kí hiệu M1 khi giám định): thu giữ trong túi áo khoác bên phải của T.

- 01 đoạn ống hút nhựa màu vàng, hàn kín hai đầu, kích thước khoảng (1x2) cm, bên trong chứa chất rắn (kí hiệu M2 khi giám định): thu giữ trên nền gác lửng, cạnh vị trí T ngồi.

- 01 gói nylon không màu, hàn kín, có khóa nhựa kéo một đầu, kích thước khoảng (4x7) cm, bên trong chứa chất bột màu trắng (kí hiệu M3 khi giám định): thu giữ trên đĩa sứ trên bàn gần cửa sổ gác lửng nhà T.

- 01 ống kim tiêm đã qua sử dụng.

- 01 đĩa sứ màu trắng.

Tại Bản kết luận giám định số 771/KL-KTHS ngày 05/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 2,1003 gam, là Heroine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,0413 gam, là Heroine.

- Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 0,0650 gam, là Heroine.

Tổng khối lượng Heroine T tàng trữ là 2,2066 gam.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 02 gói nylon, 01 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu cùng 2,0774 gam mẫu M1; 0,0142 gam mẫu M2 và 0,0378 gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong lần lượt trong phong bì số 771/1, 771/2, 771/3 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận.

Xử lý vật chứng:

02 gói nylon, 01 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu cùng 2,0774 gam mẫu M1;

0,0142 gam mẫu M2 và 0,0378 gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong lần lượt trong phong bì số 771/1, 771/2, 771/3 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận; 01 ống kim tiêm và 01 đĩa sứ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P để bảo quản chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 182/CT-VKSPT-HS ngày 17/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P quyết định, truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phát biểu quan điểm xử lý về vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Thành T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Thành T từ 24 (hai mươi bốn) tháng tù đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt tại Bản án số 142/2020/HSST ngày 03/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận để chấp hành hình phạt chung.

Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định.

Đối với đối tượng tên Tuấn đã bán ma túy cho T, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành T xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng và không tranh luận gì, thống nhất với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thành T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa nên có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 08 giờ ngày 27/6/2023, tại nhà của Nguyễn Thành T ở khu phố 7, phường Đ, thành phố P, T đang tàng trữ trái phép 2,2066 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố P phối hợp với Công an phường Đ bắt quả tang.

Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy hành vi phạm tội của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố đối với bị cáo T là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự ở địa phương, là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy c ng như sự nghiêm cấm của pháp luật đối với các hành vi liên quan đến ma túy, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, đối với bị cáo cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân c ng như tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 gói nylon, 01 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu cùng 2,0774 gam mẫu M1; 0,0142 gam mẫu M2 và 0,0378 gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong lần lượt trong phong bì số 771/1, 771/2, 771/3 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 ống kim tiêm và 01 đĩa sứ: không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Các vấn đề khác: Đối với đối tượng tên đối tượng tên Tuấn đã bán ma túy cho T, do Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được nhân thân, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thành T, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành T 02 (hai) năm tù.

Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2023/HS-ST ngày 03/8/2023 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2023.

2. Xử lý vật chứng: căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 02 gói nylon, 01 đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu cùng 2,0774 gam mẫu M1; 0,0142 gam mẫu M2 và 0,0378 gam mẫu M3 còn lại sau giám định được niêm phong lần lượt trong phong bì số 771/1, 771/2, 771/3 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Thuận; 01 ống bơm kim tiêm và 01 đĩa sứ.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 13 ngày 23/10/2023).

3. Về án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/11/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 216/2023/HS-ST

Số hiệu:216/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về