TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 21/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận P, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2024/HSST-QĐ ngày 31 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ tên: Lê Thị Tuyết X, tên gọi khác: không có; sinh ngày 15/9/1990 tại Thành phố H; địa chỉ thường trú: 7 P, Phường B, quận P, Thành phố H; nơi cư trú: G T, Phường A, quận G, Thành phố H; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M (chết) và bà Trần Thị Tuyết S; có chồng và 06 con, con lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh ngày 15/01/2024; tiền án: không;
tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/5/2023 đến ngày 30/5/2023, từ ngày 31/5/2023 thay đổi biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Ông Huỳnh Minh T, sinh năm: 1988 Địa chỉ: 2 N, Phường T, Quận A, Thành phố H (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 20/5/2023, với mục đích mua ma túy về sử dụng, Lê Thị Tuyết X đến khu vực dưới chân Cầu K, Phường B, quận P, Thành phố H mua của một người (không rõ nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy với giá 900.000 đồng. X cất giấu gói ma túy vào trong áo ngực rồi về nhà của Lê Kim N tại số B H, Phường A, quận P. Sau đó, Huỳnh Minh T (bạn trai của X) điều khiển xe máy hiệu Honda Winer X, biển số 59X1-xxxxx chở X và Lê Kim N về phòng trọ của X ở quận G, Thành phố H. Khi cả ba đi đến trước nhà số G N, Phường D, quận P thì bị Tổ tuần tra kiểm soát Công an quận P phát hiện có biển hiện nghi vấn nên đưa về Công an phường D, quận P làm việc. Tại Công an Phường, do sợ bị phát hiện nên X đã lấy 01 gói nylon chứa tinh thể không màu cất giấu trong áo ngực X đang mặc vứt xuống dưới chân ghế ngồi thì bị phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.
Tại Kết luận giám định số 5443/KL-KTHS ngày 29/5/2023 của Phòng K Công an Thành phố H kết luận:
Tinh thể không màu trong 01 gói nylon, được niêm phong bên ngoài có chữ ký của Lê Thị Tuyết X và hình dấu của Công an D, quận P, ký hiệu mẫu m, cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,4720g (hai phẩy bốn bảy hai không gam), loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKSPN ngày 20 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận P, Thành phố H đã truy tố bị cáo Lê Thị Tuyết X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Tuyết X đã trình bày lại toàn bộ nội dung vụ án và thừa nhận hành vi mua 2,4720g chất ma tuý Methamphetamine của một người (không rõ lai lịch) tại khu vực dưới chân Cầu K, Phường B, quận P, Thành phố H với mục đích để sử dụng. Khi bị cáo đang cất giữ ma túy trong người và cùng với Huỳnh Minh T, Lê Kim N đi xe máy đến trước nhà số G N, Phường D, quận P thì Tổ tuần tra Công an quận P mời về Phường D, quận P làm việc thì bị phát hiện, bắt giữ quả tang cùng ma túy vào ngày 20/5/2023 như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận P đã truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, bị cáo cũng đã nhìn nhận trách nhiệm của mình và tỏ thái độ ăn năn hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận P tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến đánh giá nội dung vụ án, xác định hành vi phạm tội và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Thị Tuyết X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) như nội dung bản cáo trạng. Đồng thời, Đại diện Viện kiểm sát cũng đã đánh giá tính chất hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định pháp luật xử phạt bị cáo Lê Thị Tuyết X mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ma túy còn lại sau giám định; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng, số Imei 1: 869945066175239, số Imei 2: 869945066175221.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận P, Kiểm sát viên đã tiến hành thu thập chứng cứ, tài liệu đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã giao nộp chứng cứ, tài liệu đúng trình tự, thủ tục quy định. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thể hiện nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp; các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với Kết luận giám định và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định, vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 20/5/2023, bị cáo Lê Thị Tuyết X thực hiện hành vi mua 2,4720g (hai phẩy bốn bảy hai không gam) chất ma tuý Methamphetamine của một người (không rõ lai lịch) tại khu vực dưới chân Cầu K, Phường B, quận P, Thành phố H với mục đích để sử dụng. Sau đó, bị cáo cất giữ ma túy trong người và cùng với Huỳnh Minh T, Lê Kim N đi xe máy đến trước nhà số G N, Phường D, quận P thì bị Tổ tuần tra Công an quận P mời về Phường D, quận P làm việc. Tại đây, bị cáo X đã lấy gói ma túy đang cất giấu trong người bỏ xuống chân ghế ngồi thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Do đó, hành vi của bị cáo Lê Thị Tuyết X thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận P đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự xã hội nên cần thiết phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Tuy nhiên, xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải, phạm tội khi đang mang thai nên cần xem xét áp dụng các quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[6] Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, xét bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Đối với Huỳnh Minh T và Lê Thị Kim N1 (chết vào ngày 16/8/2023) cùng đi chung với bị cáo X khi bị bắt quả tang. Tuy nhiên, T và N1 không liên quan đến việc bị cáo X tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.
[8] Về tang vật chứng của vụ án:
- Một gói niêm phong ma túy còn lại sau giám định vụ 5443 (1162/23), đây là chất ma tuý mà Nhà nước quy định cấm tàng trữ, sử dụng trái phép nên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng, số Imei 1: 869945066175239, số Imei 2: 869945066175221, là tài sản của bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, sung quỹ Nhà nước;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
1.1. Tuyên bố bị cáo Lê Thị Tuyết X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.2. Xử phạt: Lê Thị Tuyết X 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt để thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 20/5/2023 đến ngày 30/5/2023.
2. Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
2.1. Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong ma túy còn lại sau giám định vụ 5443 (1162/23);
2.2. Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu vàng, số Imei 1: 869945066175239, số Imei 2: 869945066175221.
(Tang vật thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 19/2024 ngày 28/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận P, Thành phố H).
3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Lê Thị Tuyết X phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2024/HS-ST
Số hiệu: | 21/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về