Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN- TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 03 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2022/HSST ngày 01/03/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST- HS ngày 03/03/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngô Đức C, sinh năm: 1980; HKTT và chỗ ở: Tổ X phường V, quận L, TP. Hà Nội, Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Nghề nghiệp: Lao động tự do, Trình độ học vấn: 12/12,: Con ông: Ngô Văn N, con bà: Nguyễn Thị S; Vợ: Đoàn Thị Lan H, có 02 con: Lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2022 Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/09/2021 đến ngày 28/09/2021, hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà

2. Họ và tên: Nguyễn Thiện Đ, sinh năm: 1980; HKTT: Số X phố T, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; Chỗ ở: Không nơi ở cố định; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không, Nghề nghiệp: Lao động tự do, Trình độ học vấn: 12/12,: Con ông Nguyễn Thanh N1 và bà Đỗ Thị T, Vợ: Phạm Thu H (Không đăng ký kết hôn), có 01 con sinh năm 2003. 04 tiền sự - Năm 2003 đi cơ sở giáo dục; năm 2011 và 2014 bị xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2018 bị xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ hàng cấm. 02 Tiền án:

-Bản án số 283/HSST ngày 06/11/2006 TAND thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 39 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 26/5/2006, ra trại ngày 26/02/2009.

- Bản án số 185/HSST ngày 27/6/2018 TAND TP Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn tù tính từ ngày 07/3/2018, ra trại ngày 07/01/2020.

Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 22/9/2021. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Đoàn Thị Lan H, sinh năm: 1982, Trú tại: Tổ X phường V, quận L, TP. Hà Nội.

(Có mặt tại phiên toà) (Chị vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 22/9/2021 tổ công tác Công an phường Bồ Đề làm nhiệm vụ khu đất trống thuộc tổ 11 phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội phát hiện Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên đã yêu cầu các đối tượng về trụ sở làm việc. Tại Công an phường Bồ Đề tổ công tác phát hiện trong mũ bảo hiểm của C có 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng. C và Đ khai nhận chất bột màu trắng bên trong gói giấy bạc màu trắng là ma túy heroine vừa đi mua về để sử dụng. C và Đ đã sử dụng chung một phần của gói ma túy trên, phần ma túy còn thừa Đ gói lại đưa cho C cầm cùng 02 xilanh và 03 lọ Novocain để sử dụng sau nhưng các đối tượng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật.

Tạm giữ của Ngô Đức C:

+ 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng; 02 bơm kim tiêm chưa sử dụng, 03 lọ nước cất Novocain chưa sử dụng.

+01 mũ bảo hiểm màu đen trắng; 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH BKS 14Y1- 183.94; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen; số tiền 200.000 đồng.

Tạm giữ của Nguyễn Thiện Đ: 01 điện thoại Nokia màu xanh.

Kết luận giám định số 7043/KLGĐ-PC09 ngày 30/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,156 gam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ khai nhận:

Khoảng 15 giờ 00’ ngày 22/9/2021, Ngô Đức C gọi điện thoại cho Nguyễn Thiện Đ rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng, Đ đồng ý. Sau đó C điều khiển xe máy BKS 14Y1-183.94 chở Đ từ phòng trọ của Đ tại phường Long Biên đến khu vực phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội mục đích để mua ma túy. Trên đường đi C đưa cho Đ 500.000 đồng để Đ đi mua ma túy. Sau đó Đ sử dụng điện thoại của Đ gọi cho đối tượng tên Hoàng, số thuê bao 0964641409 hỏi mua ma túy, Hoàng đồng ý bán ma túy cho Đ và hẹn Đ ở khu vực cây xăng Phú Viên, phường Bồ Đề, Long Biên. Khi đi đến cửa khẩu Phú Viên, C dừng xe để Đ đi vào hiệu thuốc mua 04 xilanh và 05 lọ Novocaine hết 10.000 đồng. Sau đó Đ đi vào khu vực cây xăng Phú Viên mua của Hoàng 01 gói ma túy heroine với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Đ đi đến chỗ C đứng đợi trả lại cho C 100.000 đồng tiền thừa rồi cả hai đi đến khu vực bãi đất trống thuộc tổ 11 phường Bồ Đề, Long Biên sử dụng 01 phần gói ma túy heroine bằng hình thức chích, phần ma túy chưa sử dụng hết Đ gói lại rồi đưa cho C, C giấu vào trong mũ bảo hiểm của C để tiếp tục cùng nhau sử dụng sau. Khi C và Đ vừa sử dụng ma túy xong thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật như đã nêu trên.

Đối với đối tượng tên Hoàng là người bán ma túy cho Đ, sử dụng số điện thoại 0964641409, kết quả xác minh số điện thoại trên là thuê bao trả trước, không đăng ký thông tin thuê bao. Đ khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH BKS: 14Y1-183.94, số khung:

061664, số máy: 1061707. Kết quả tra cứu xe máy trên không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng, đăng kí xe mang tên Đoàn Hồng Tiến (Sinh năm: 1985; HKTT: T31, Phú Thanh Tây, Yên Thanh, Uông Bí, Quảng Ninh). Anh Tiến khai chiếc xe máy trên anh mua năm 2016, đến tháng 8 năm 2018 anh bán lại chiếc xe trên cho chị Đoàn Thị Lan H, sinh năm: 1982, HKTT: Tổ 11 phường Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội. Ngày 22/9/2021 chồng chị H là Ngô Đức C sử dụng xe làm phương tiện đi lại. Chị H khai không biết việc C sử dụng xe để đi mua ma túy.

Đối với số tiền 200.000 đồng và chiếc điện thoại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Black Berry màu đen cơ quan công an tạm giữ của C; quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của C, không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ tạm giữ của C; chiếc điện thoại Nokia màu xanh tạm giữ của Đ, quá trình điều tra xác định là tài sản của các bị cáo dùng để liên lạc rủ nhau đi sử dụng ma túy và mua ma túy.

Tại bản cáo trạng số 25/CT- VKS ngày 25/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tại phiên toà:

- Bị cáo Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ thành khẩn khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng, không kêu oan, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đoàn Thị Lan H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tại Cơ quan điều tra chị H khai, chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH BKS: 14Y1-183.94 có nguồn gốc là do chị bỏ tiền ra mua. Chồng chị là bị cáo C không đóng góp tiền để mua xe này. Khi cho mượn xe chị không biết bị cáo C dùng để đi mua ma túy. Chị H đề nghị trả lại cho chị chiếc xe máy. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân quận Long Biên duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.

Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đề nghị như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với bị cáo C áp dụng thêm khoản 2 Điều 51, đối với bị cáo Đ áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52); Điều 38, Điều 17; Điều 58; Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Ngô Đức C mức án từ 14 tháng đến 16 tháng tù.

Nguyễn Thiện Đ mức án từ 18 tháng đến 20 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng Xử lý tang vật: Tịch thu tiêu hủy 0,156 gam heroin, 02 bơm kim tiêm, 03 lọ nước Novocain Trả lại cho bị cáo C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Blackberry màu đen và 01 mũ bảo hiểm.

Trả lại cho bị cáo C số tiền 200.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại Oppo màu đỏ, 01 điện thoại Nokia màu đen Trả lại cho chị Đoàn Thị Lan H 01 xe máy nhãn hiệu SH BKS: 14Y1-183.94

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi tố tụng của Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00’ ngày 22/09/2021, tổ công tác Công an phường Bồ Đề làm nhiệm vụ tại khu đất trống thuộc tổ 11 phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội đã phát hiện bắt quả tang Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,156 gam heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, Xét vai trò của các bị cáo nhận thấy: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng chỉ mang tính chất giản đơn. Bị cáo C và Đ cùng rủ nhau đi mua ma túy để sử dụng chung, bị cáo C dùng xe máy chở bị cáo Đ và bỏ tiền ra mua ma túy. Bị cáo Đ dùng điện thoại liên lạc với đối tượng bán ma túy và là kẻ trực tiếp đi mua ma túy nên các bị cáo có vai trò ngang nhau.

Xét nhân thân các bị cáo, nhận thấy: Đối với bị cáo C nhân thân chưa có tiền án, tiền sự.

Đối với bị cáo Đ nhân thân có 04 tiền sự đã hết thời hiệu: Năm 2003 đi cơ sở giáo dục; năm 2011 và 2014 bị xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; năm 2018 bị xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ hàng cấm”. 02 Tiền án: Bản án số 283/HSST ngày 06/11/2006 TAND thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 39 tháng tù về tội Cướp tài sản. Bản án này đã được xóa án tích. Bản án số 185/HSST ngày 27/6/2018 TAND TP Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn tù tính từ ngày 07/3/2018, ra trại ngày 07/01/2020. Bản án này chưa được xóa án tích. Phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Điều đó chứng tỏ bị cáo Đ có nhân thân rất xấu, bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhiều lần nhưng lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội.

Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe và đấu tranh phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo C có ông nội là ông Ngô Khản là lão thành cách mạng, bố đẻ là ông Ngô Văn Nhân là sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Nhà nước tặng Huân chương chiến công hạng nhất nên được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt phạt tiền cho các bị cáo

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đối với 0,156 gam heroin là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy Đối với 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng, 03 lọ nước Novocain chưa qua sử dụng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Blackberry màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu đen, sọc trắng đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo C không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo do đó trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 điện thoại Oppo màu đỏ thu giữ của bị cáo C, 01 điện thoại Nokia màu xanh thu giữ của bị cáo Đ, các bị cáo dùng để liên lạc rủ nhau đi mua ma túy, do đó cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH, BKS: 14Y1-183.94, số khung:

061664, số máy: 1061707, xác minh xác định được chủ sở hữu là chị Đoàn Thị Lan H. Chị H không biết việc bị cáo C mượn xe để đi mua ma túy. Do đó trả lại cho chị Đoàn Thị Lan H.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (Đối với bị cáo C áp dụng thêm khoản 2 Điều 51, đối với bị cáo Đ áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52); Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố : Bị cáo Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Xử phạt Ngô Đức C 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/09/2021 đến 28/09/2021

Xử phạt Nguyễn Thiện Đ 19 (Mười chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/09/2021 Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho các bị cáo

- Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phòng bì bên trong có 0,156 gam heroin (đã thu mẫu giám định 0,018 gam) theo Phiếu nhập kho vật chứng của Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên ngày 07/12/2021.

Tịch thu tiêu huỷ 02 bơm kim tiêm, 03 lọ nước Novocain đều chưa qua sử dụng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên và Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 28/02/2022.

Trả lại cho bị cáo Ngô Đức C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Blackberry màu đen và 01 mũ bảo hiểm màu đen, sọc trắng đã qua sử dụng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên và Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 28/02/2022.

Trả lại cho bị cáo Ngô Đức C số tiền 200.000 đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.1048583 tại Kho bạc nhà nước quận Long Biên ngày 28/02/2022 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại Oppo màu đỏ, 01 điện thoại Nokia màu xanh theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên và Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 28/02/2022.

Trả lại cho chị Đoàn Thị Lan H 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH, BKS: 14Y1- 183.94 theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT- Công an quận Long Biên và Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 28/02/2022.

Về án phí: Bị cáo Ngô Đức C và Nguyễn Thiện Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lời, nghĩa vụ liên quan là chị Đoàn Thị Lan H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về