Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2021/HSST NGÀY 09/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 04 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/HSST, ngày 17/03/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST- HS ngày 23/03/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Tú Nh.Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 24 tháng 09 năm 2000 tại xã Th, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Thôn T, xã Th, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hóa: 06/12.Con ông: (không xác định) và bà: Lê Thị L - Sinh năm: 1979.Tiền án, Tiền sự: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ 24/12/2020 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện C,tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Bà Lê Thị L –Trú tại: Thôn T, xã Đ, huyện B, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

- Ông Phạm Văn D - Trú tại: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt

- Ông Hà Văn H – Trú tại: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Tú Nh, là đối tượng nghiện ma túy, Vào khoảng 09 giờ ngày 24/12/2020, Lê Tú Nh đón xe ôm đi từ nhà tại thôn Th xã Th, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa, đến thôn 4, xã N, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa tìm mua ma túy để sử dụng. Nh đã mua của một người thanh niên (Nh không biết tên và địa chỉ ) 01 (một) gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa; 02 (hai) viên nén hình tròn, màu hồng bên trên các viên nón đều có ký hiệu “WY” loại ma túy tổng hợp với giá 400.000đ. Sau khi mua được ma túy, Lê Tú Nh tiếp tục bắt xe ôm đi đến huyện C để tìm chỗ sử dụng ma túy, khi đi đến Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Nh xuống xe đi vào một quán tạp hóa thì bị lực lượng Công an đến yêu cầu kiểm tra hành chính. Qúa trình kiểm tra, Lê Tú Nh đã tự nguyện giao nộp 01 (một) gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa toàn bộ số ma túy mà Nh vừa mua được Bản kết luận giám định số 157/PC09, ngày 29 tháng 12 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất rắn màu trắng, dạng tinh thể gửi giám định là chất ma túy, có khối lượng 0,352g (Không phẩy ba năm hai gam), loại Methamphetamine. 02 (hai) viên nén hình tròn, màu hồng, bên trên các viên đều có ký hiệu “WY” là ma túy có tổng khối lượng là 0,193g ( không phẩy một chín ba gam), loại Methamphetamine.

Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành xác minh đối với người thanh niên đã bán ma túy cho Lê Tú Nh vào ngày 24/12/2020, nhưng không có đủ cơ sở để xác minh, xác định đối tượng.

Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín và niêm phong bên trong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine đã qua giám định. Số tang vật trên được chuyển đến kho tang vật cơ quan chi cục thi hành án dân sự huyện C để xử lý theo quy định của pháp luật Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKS-CT ngày 17/03/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã quyết định truy tố Lê Tú Nh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Lê Tú Nh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47- BLHS; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 xử phạt Lê Tú Nh từ 24 tháng – 30 tháng tù. Về vật chứng: Đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Tú Nh khai nhận hành vi phạm tội được nêu trong bản cáo trạng là đúng.

Người làm chứng cũng có lời khai phù hợp với các tình tiết nêu trong bản cáo trạng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên.Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Tú Nh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10h00 phút ngày 24/12/2020, tại Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Thanh Hóa. Lê Tú Nh đã có hành vi tàng trữ 0,545g (Không phẩy năm bốn năn gâm) ma túy loại Methamphetamine. nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của Lê Tú Nh đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tủy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc,cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là thành khẩn khai báo, không có tiền án, tiền sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5].Về vật chứng và xử lý vật chứng: Gồm một phong bì niêm phong bên trong có chất ma túy có trọng lượng còn lại sau giám định là 0,420g loại Methamphetamine nên tịch thu tiêu hủy.

[6].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 – BLHS. Điều 106; Điều 136; Điều 333- BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tú Nh phạm tội “c” Xử phạt: Bị cáo Lê Tú Nh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2020.

Về vật chứng vụ án: - Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có 0,420g ma túy là mẫu vật còn lại sau giám định, được đóng dấu niêm phong bởi các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa có các chữ ký của Nguyễn Trần Đ, Lê Minh T, Bùi Văn H (Theo biên bản giao nhận tang vật ngày 17 tháng 3 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C) Về án phí: Bị cáo Lê Tú Nh phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2021/HSST

Số hiệu:21/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về