Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-HS ngày 18/11/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1990; Nơi sinh: Huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản B, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lù Văn S, sinh năm 1944 và con bà Lò Thị Ơ, sinh năm 1943; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Vợ: Tòng Thị X, sinh năm 1989; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2021 đến ngày 24/7/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lù Văn G, sinh năm 1978; địa chỉ: Bản B, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 15/7/2021, Lò Văn T đang ở nhà thì có Lù Văn G trú cùng bản đến nhờ T đi cùng rút tiền tại cây ATM thuộc tổ dân phố 26, thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, T đồng ý. Sau đó G điều khiển xe mô tô BKS 25B1-508.52 chở T xuống thị trấn Tân Uyên để rút tiền. Rút tiền xong G trả nợ cho T 100.000 đồng mà G nợ T từ trước, sau đó T nhờ G chở T xuống chợ Tân Uyên, huyện Tân Uyên nói là đi có việc, đến chợ Tân Uyên T một mình đi vào cửa hàng điện thoại của Nguyễn Tiến T, trú tại tổ dân phố X, thị trấn T, huyện T để T ký gửi 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A54 lấy số tiền 2.200.000 đồng. Khi T và G chuẩn bị quay về nhà thì G có rủ T đi cùng xuống bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên để G hỏi vay tiền người quen, T đồng ý. Sau đó, G điều khiển xe mô tô chở T đi đến bản Sơn Hà, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên thì G dừng xe lại đi vào quán mua thuốc lá hút, lúc này G đổi lái cho T điều khiển xe mô tô đi vào nhà người quen tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên để G hỏi vay tiền nhưng G không vay được tiền nên T điều khiển xe mô tô chở G quay về nhà. Trên đường về đến khu vực bản người Mông (thuộc bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên) thì T nói với G là xuống xe đợi T để T đi có việc (T không nói cho G biết là mục đích T đi tìm mua Heroine). Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi vào trong bản bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên, trên đường đi T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ lai lịch. Qua trao đổi, T mua được của người phụ nữ này 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu hồng và 01 gói ma túy tổng hơp (Hồng phiến) bên trong có 04 viên màu hồng được gói bằng mảnh nilon màu hồng, tất cả được gói chung trong mảnh nilon màu hồng ở lớp ngoài cùng với giá 1.400.000 đồng. Mua được Heroine T cầm ở trên tay trái rồi điều khiển xe mô tô ra đón G đi về (T không nói cho G biết là T mua được Heroine và cất giữ Heroine trên người). Đến khoảng 13 giờ 35 phút cùng ngày khi G và T trên đường về đến ngã ba Trung Đồng, xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên thì bị Công an huyện Tân Uyên kiểm tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ của T 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu hồng có khối lượng 3,54 gam; 04 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,38 gam và 01 xe mô tô BKS 25B1-508.52, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

Ngày 15/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số 71/KL-TCGĐ ngày 15/7/2021 của Công an huyện Tân Uyên, kết luận: 01 gói chất bột khô, màu trắng được gói bằng mảnh nilon màu hồng thu giữ của Lò Văn T có khối lượng là 3,54 gam và 04 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn T có tổng khối lượng 0,38 gam.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên đã trích 0,17 gam trong tổng số 3,54 gam chất bột khô, màu trắng và trích 0,1 gam trong tổng số 0,38 gam viên nén màu hồng của Lò Văn T, theo T khai là Heroine và Hồng phiến gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 635/GĐ-KTHS ngày 23/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu mẫu 1) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”; 01 (một) mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu mẫu 2) gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 91/CT-VKS-TU ngày 08/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận, xác nhận đã nhận lại chiếc xe xe mô tô BKS 25B1-508.52, xe đã qua sử dụng, không có yêu cầu gì thêm.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo còn hai con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định:

Hồi 13 giờ 35 phút, ngày 15/7/2021, tại khu vực ngã ba Trung Đồng, xã Trung Đồng, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu bị cáo Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 3,54 gam và tàng trữ trái phép 04 viên nén ma túy tổng hợp loại Methamphetamine có tổng khối lượng 0,38 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Tân Uyên phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn nên cần được xử lý nghiêm minh.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; khi bị công an phát hiện bắt quả tang có xét nghiệm chất ma túy thì bị cáo có sử dụng chất ma túy (dương tính).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa; bị cáo có bố đẻ được Hội đồng nhà nước thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, tặng Huân chương kháng chiến hạng ba và được Chủ tịch nước thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, nguồn thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

3,37 gam Heroine và 0,28 gam Methamphetamine còn lại sau giám định; 03 mảnh nilon màu hồng xét thấy cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. 

01 xe mô tô BKS 25B1-508.52, nhãn hiệu YAMAHA, màu sơn: Vàng - Đen, số máy E3T6E275293, số khung 1710HY189642, loại xe SIRIUS, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của Lù Văn G. Việc bị cáo Lò Văn T sử dụng chiếc xe mô tô trên để đi mua ma túy anh G không biết. Ngày 27/7/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành trả lại chiếc xe trên cho anh Lù Văn G là đúng quy định của pháp luật.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc 3,54 gam Heroine và 0,38 gam Methamphetamine bị cáo Lò Văn T khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân, lai lịch tại bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên. Quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ này nên không có căn cứ xử lý.

Đối với Lù Văn G là người đi xe mô tô cùng với bị cáo Lò Văn T thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang. Quá trình điều tra, xác định anh Lù Văn G không biết bị cáo T tàng trữ trái phép chất ma túy trên người, do đó không có căn cứ xử lý đối với Lù Văn G.

Đối với Nguyễn Tiến T là người đã cho Lò Văn T ký gửi 01 chiếc điện thoại di động OPPO A54 lấy số tiền 2.200.000 đồng, sau đó T dùng số tiền này đi mua ma túy thì Tuấn không biết. Do đó, không có căn cứ xử lý đối với T theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành 03 (Ba) năm 05 (Năm) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu bên trong đựng 3,37 gam Heroine; 0, 37 gam Methamphetamine và 03 mảnh nilon màu hồng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 08 giờ 50 phút ngày 16/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên)

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về