TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 209/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 204/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 209/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2022/HSST-QĐ ngày 21 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Quàng Văn Th - Tên gọi khác: Quàng Văn B, Quàng Văn Ư; Sinh năm: 1969, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Quàng Văn H và con bà: Quàng Thị Đ; Vợ: Lò Thị B (Đã ly hôn); Con: Không có; Tiền án: Có 06 tiền án nhưng chưa được xóa tiền án, cụ thể: Năm 1993 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 24/01/1994 bị Tòa án U Đôm Xay- Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào xử phạt 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; Ngày 14/10/1995 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội: Xuất cảnh trái phép và 18 tháng về tội: Trốn khỏi nơi giam và cộng thêm 04 tháng 07 ngày tù của bản án tỉnh Lai Châu năm 1993. Tổng hợp hình phạt chung là 34 tháng 07 ngày tù; Ngày 03/7/2003 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 28 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản; Ngày 12/5/2006 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 09 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 26/5/2014 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2022, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/4/2022, Quàng Văn Th đi bộ từ nhà ở Bản N, xã N, huyện Đ đến bản X, xã Th, huyện Đ với mục đích tìm mua Heroine về sử dụng. Đến nơi, Th gặp và mua được 06 gói Heroine đều được gói bằng giấy bạc màu vàng của một người phụ nữ dân tộc Thái, khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine Th cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi về nhà. Hồi 23 giờ 00 phút cùng ngày khi Th đi về đến khu vực Bản N, xã N, huyện Đ thì bị tổ công tác Công an xã Noong Luống phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại túi quần bên phải Th đang mặc có 06 gói Heroine có khối lượng 0,51 (Không phảy năm mốt) gam.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 23/4/2022 đã xác định: Khối lượng toàn bộ số cục màu trắng nghi Heroine có tổng khối lượng là 0,51 gam, gửi toàn bộ giám định.
Tại Kết luận giám định số: 584/KL-KTHS ngày 29/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Th gồm: 0,51 gam; Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Quàng Văn Th gửi giám định là ma túy loại Heroine; Hoàn lại đối tượng giám định 0,46 gam;
Tại biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định ngày 04/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên: Hoàn lại mẫu sau khi giám định là: 0,46 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.
Về vật chứng của vụ án: Ngày 23/6/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 0,46 gam Heroine còn lại sau khi giám định.
Bản cáo trạng số: 121/CT-VKSĐB ngày 22/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Quàng Văn Th về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Quàng Văn Th với mức hình phạt từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,46 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định.
* Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Quàng Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên; Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Quàng Văn Th khai nhận vào hồi 23 giờ 00 phút ngày 22/4/2022, tại Bản N, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, Quàng Văn Th có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,51 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân. Th khai nguồn gốc số Heroine này là do Th mua của một người phụ nữ dân tộc Thái, khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) tại bản X, xã Th, huyện Đ số tiền 300.000 đồng.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý, sử dụng các chất ma túy và đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy", bị cáo phạm tội thuộc trường hợp "Tái phạm nguy hiểm" và là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
o) Tái phạm nguy hiểm”.
Quàng Văn Th là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Quàng Văn Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Quàng Văn Th không có tiền sự nhưng có nhân thân rất xấu bởi trước đó bị cáo đã từng có 06 tiền án chưa được xóa án tích đó là: Năm 1993 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 24/01/1994 bị Tòa án U Đôm Xay- Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào xử phạt 36 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản; Ngày 14/10/1995 Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội: Xuất cảnh trái phép và 18 tháng về tội: Trốn khỏi nơi giam và cộng thêm 04 tháng 07 ngày tù của bản án tỉnh Lai Châu năm 1993. Tổng hợp hình phạt chung là 34 tháng 07 ngày tù (Bản án số: 38/HS-ST ngày 14/10/1995); Ngày 03/7/2003 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 28 tháng tù, về tội: Trộm cắp tài sản (Bản án số: 66/HS-ST ngày 03/7/2003); Ngày 12/5/2006 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt bị cáo 09 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số: 83/2006/HSST ngày 12/5/2006); Ngày 26/5/2014 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt bị cáo 08 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy (Bản án số: 123/2014/HSST ngày 26/5/2014). Đến ngày 13/4/2021 bị cáo ra trại và trở về địa phương sinh sống. Bị cáo Quàng Văn Th có 06 tiền án chưa được xóa án tích, đã bị áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm (tại Bản án số:
83/2006/HSST ngày 12/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên), nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, nghiện ma túy từ năm 1991 cho đến nay, vì muốn có ma túy để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.
Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy từ nhiều năm nay, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nghề làm ruộng, ngoài ra không có thu nhập nào khác. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.
[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử cần: Tịch thu tiêu hủy 0,46 gam Heroine còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án.
[6] Về các vấn đề khác: Quàng Văn Th khai số Heroine trên là do Hải của một người phụ nữ dân tộc Thái, khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) tại tại bản X, xã Th, huyện Đ nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.
[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Quàng Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Th (Tên gọi khác: Quàng Văn B, Quàng Văn Ư) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Quàng Văn Th 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (23/4/2022).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,46 gam Heroine còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án.
Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/6/2022 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Quàng Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Quàng Văn Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (12/8/2022).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 209/2022/HS-ST
Số hiệu: | 209/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về