Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 208/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 208/2021/HS-ST NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 12 năm 2021, tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 Hà Nội, Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 190/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 210/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Vi Huỳnh D, sinh năm 1997; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Bản L, xã L, huyện D, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Vi Văn H, sinh năm 1968; họ tên mẹ: Mộng Thị H, sinh năm 1976; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Theo Bản án số 39/2020/HSST ngày 14/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Nghệ An, xử phạt Vi Huỳnh D 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 16/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích; theo Quyết định số 68/2021/QĐ-TA ngày 16/07/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội, Vi Huỳnh D bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 24 tháng, hiện đang chấp hành quyết định này.

Hiện bị cáo đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 20 ngày 28/6/2021, Công an xã C phối hợp Công an xã W, Công an huyện K làm nhiệm vụ tại khu vực đường Đặng Phúc T, W, K, Hà Nội kiểm tra, phát hiện Vi Huỳnh D và Lô Văn D, sinh năm 1994; ĐKHKTT: Bản D, Thanh S, C, Nghệ An có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản sự việc, thu giữ, niêm phong vật chứng và đưa các đối tượng về trụ sở Công an tiếp tục làm việc.

Vật chứng thu giữ của Vi Huỳnh D gồm: 02 (Hai) đoạn ống hút nhựa được hàn kín hai đầu (01 đoạn màu vàng sọc đỏ và 01 đoạn màu vàng sọc trắng), bên trong đều chứa chất bột màu trắng và 01 điện thoại di động Realme C112021 màu xanh bên trong có lắp sim liên lạc số 0865440835 đã qua sử dụng.

Thu giữ của Lô Văn D: 01 xe máy nhãn hiệu Attila BKS 14P9-3350, số khung: 040825, số máy: 040825 đã qua sử dụng.

Tại kết luận giám định số 5338/KLGĐ- PC09, ngày 05/07/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 đoạn ống nhựa được hàn kín 2 đầu đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,070 gam.

Tại cơ quan điều tra, Vi Huỳnh D và đối tượng Lô Văn D khai nhận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 28/6/2021, Vi Huỳnh D rủ Lô Văn D lên khu vực nghĩa trang thuộc Đình Bảng, Từ S, Bắc Ninh với mục đích mua ma túy để cùng nhau sử dụng, D đồng ý và mượn xe máy nhãn hiệu Attila BKS 14P9-3350 của anh Hà Văn H, sinh năm 1989, ĐKHKTT: T, TH, Thanh Hóa và chở D đi từ công trường ở Tiên S, Bắc Ninh đến Đình Bảng, Từ S, Bắc Ninh để mua ma túy. Khi đến khu vực nghĩa trang thuộc Đình Bảng, Từ S, Bắc Ninh, D thấy ven đường có 1 nam thanh niên không rõ nhân thân, D bảo D dừng xe, D đi đến chỗ nam thanh niên và hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy Heroine, nam thanh niên đồng ý và bán cho D 02 đoạn ống nhựa được hàn kín 2 đầu (01 đoạn màu vàng sọc đỏ và 01 đoạn màu vàng sọc trắng) bên trong chứa ma túy Heroine. Sau khi mua được ma tuý, D và D đi tìm chỗ sử dụng, khi đi đến đoạn đường Đặng Phúc T, W, K, Hà Nội thì bị cơ quan Công an kiểm tra, bắt quả tang cùng vật chứng.

Đối với Lô Văn D, qua tra cứu và lý lịch cá nhân địa phương cung cấp thì D chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 28/6/2021 tại khu vực đường Đặng Phúc T, W, K, Hà Nội, D cùng với D có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng khối lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 04/10/2021, Công an huyện K ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với D về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Vi Huỳnh D do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Attila BKS 14P9-3350, số khung:

040825, số máy: 040825 đã qua sử dụng mà D mượn thuộc sở hữu của anh Hà Văn H. Khi cho mượn xe, anh H không biết D sử dụng để chở D đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe nêu trên cho anh H.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme C112021 màu xanh sẫm bên trong có lắp sim liên lạc 0865440835 đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo Vi Huỳnh D không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 191/CT-VKSGL ngày 03 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Vi Huỳnh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vi Huỳnh D từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme C112021 màu xanh sẫm bên trong có lắp sim liên lạc 0865440835, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo.

Cơ quan điều tra công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy nhãn hiệu Attila BKS 14P9-3350, số khung: 040825, số máy: 040825 đã qua sử dụng cho anh Hà Văn H là phù hợp quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 12 giờ 20 phút ngày 28/6/2021, tại khu vực đường Đặng Phúc T, xã W, huyện K, thành phố Hà Nội, Vi Huỳnh D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,070 gam để sử dụng, thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Tại Bản án số 39/2020/HSST ngày 14/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Nghệ An, xử phạt Vi Huỳnh D 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 16/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích, lần này bị cáo lại vi phạm với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroin là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết pH xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Theo Bản án số 39/2020/HSST ngày 14/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ S, tỉnh Nghệ An, xử phạt Vi Huỳnh D 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 16/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Theo Quyết định số 68/2021/QĐ-TA ngày 16/07/2021 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội, Vi Huỳnh D bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 24 tháng, hiện đang chấp hành quyết định này. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, nhưng không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần pH cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Hoàn trả Vi Huỳnh D: 01 chiếc chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme C112021 màu xanh sẫm bên trong có lắp sim liên lạc 0865440835, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phạm tội pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho Vi Huỳnh D, do không xác định được nhân thân, cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Lô Văn D, qua tra cứu và lý lịch cá nhân địa phương cung cấp thì D chưa có tiền án, tiền sự. Ngày 28/06/2021, tại khu vực đường Đặng Phúc T, W, K, Hà Nội, D cùng với D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng khối lượng ma túy không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 04/10/2021, Công an huyện K đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với D theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vi Huỳnh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vi Huỳnh D 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1 Tịch thu, tiêu huỷ: Ma túy loại Heroine, khối lượng 0,061 gam (đã trừ trích mẫu để giám định 0,009 gam), thu giữ của bị cáo Vi Huỳnh D, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Vi Huỳnh D, Lô Văn D, cán bộ niêm phong và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định;

3.2 Hoàn trả Vi Huỳnh D: 01 chiếc chiếc điện thoại nhãn hiệu Realme C112021 màu xanh sẫm bên trong có lắp sim liên lạc 0865440835, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 05/11/2021).

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Vi Huỳnh D pH chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 208/2021/HS-ST

Số hiệu:208/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về