TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 20/3/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2024/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn D; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 26/02/1983, tại tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn D, đã chết và bà Đinh Thị K, đã chết; Vợ: Lò Thị L, sinh năm 1986; Có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2013; Bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Tiền sự: không;
Tiền án: không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 13 giờ ngày 16/12/2023, Phạm Văn D đang chăm sóc người nhà ốm tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, thuộc tổ 27, phường Đông Phong, thành phố L, tỉnh Lai Châu thì lên cơn nghiện ma túy nên đã đi bộ ra ngoài Bệnh viện để tìm mua Heroine để sử dụng. Khi D đi bộ một mình trên đoạn đường 58m đối diện với Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu thì gặp một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch đang đứng bên đường. D thấy người này giống người nghiện ma túy nên đã hỏi mua Heroine với người này. Qua trao đổi mua bán, D mua được của người đàn ông nói trên 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng 03 lớp, lớp ngoài cùng là 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), lớp thứ hai là 01 mảnh nilon màu xanh, lớp trong cùng là 01 mảnh giấy có in chữ màu đen ở hai mặt với giá 300.000 đồng. Mua được Heroine, D cất giấu gói Heroine vào trong miệng của mình rồi đi bộ về Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu. Hồi 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi D về đến cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu thì gặp Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố L đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra đối với D. Quá trình kiểm tra, D đã tự giác lấy gói Heroine đang cất giấu trong miệng ra giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D và thu giữ 01 gói Heroine D đang tàng trữ để sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số 57/KLGĐ ngày 16/12/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an thành phố L và bản kết luận giám định số 01/KL-KTHS ngày 17/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Phạm Văn D trong quá trình bắt quả tang ngày 16/12/2023 có khối lượng là 0,20 gam. 01 mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma tuý; loại Heroine (Heroin).
Cáo trạng số 09/CT-VKSTP ngày 02/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố Phạm Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2023.
- Hình phạt bổ sung: đề nghị hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự;
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy: 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy có in chữ màu đen ở hai mặt.
- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Hồi 13 giờ 30 phút ngày 16/12/2023, tại khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, thuộc tổ 27, phường Đông Phong, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Phạm Văn D đang tàng trữ trái phép 0,20 gam Heroine để sử dụng thì bị Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố L phát hiện, bắt quả tang.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Bị cáo Phạm Văn D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Phạm Văn D có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Do vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ ông Phạm Văn Dụng là thương binh. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo;
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp, nghiêm khắc nhằm tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử cần quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án:
- Đối với 0,20 gam Heroine thu giữ của bị cáo Phạm Văn D, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.
- Đối với 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy có in chữ màu đen ở hai mặt). Xét thấy, vật chứng trên là công cụ phạm tội, vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại các điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu tại phiên tòa là có căn cứ. Tuy nhiên mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị từ 15 tháng đến 18 tháng tù là có phần còn hơi nghiêm khắc. Bởi lẽ, trong qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có bố đẻ là thương binh, hơn nữa khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không nhiều (0,20 gam). Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt nhẹ hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát cũng đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo. Đồng thời cũng thể hiện được chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội lần đầu, biết ăn năn hối cải.
[7] Các vấn đề khác:
Bị cáo Phạm Văn D khai nhận nguồn gốc 0,20 gam Heroine bị thu giữ là mua của một người đàn ông tại đoạn đường 58m đối diện Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, thuộc tổ 27, phường Đông Phong, thành phố L. Tuy nhiên, D không biết nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.
[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
[1] Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2023.
[3] Về vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong là phong bì công văn của Công an thành phố L (Theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh giấy màu trắng (loại giấy vệ sinh), 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh giấy có in chữ màu đen ở hai mặt.) (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 10 phút ngày 06/3/2024 giữa Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lai Châu).
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về