Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:16/2022/TLST - HS ngày 01 tháng 6năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

18/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

Hà Văn T. Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 27 tháng 6 năm 1974; Nơi sinh: huyện B, Bắc Kạn;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn N (đã chết) và bà Triệu Thị P; vợ: Hoàng Thị Ư; con: Có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/4/2022 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ 15 phút ngày 05/4/2022, tại khu vực thôn Đ, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Công an huyện B phát hiện bắt quả tang Hà Văn T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong tay phải của Thúc đang nắm 03 gói nhỏ, trong đó: 01 gói được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong chứa chất màu trắng và màu hồng; 01 gói được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu trắng bạc, bên trong chứa chất màu trắng; 01 gói được gói bằng túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu hồng. Qua kiểm tra thử phản ứng phát hiện nhanh chất ma tuý đối với số chất màu trắng và màu hồng đã thu giữ, kết quả trùng với đặc trưng phản ứng của ma tuý Heroine và Methamphetamine. Sau khi thử phản ứng, tiến hành gói lại như lúc phát hiện và được niêm phong trong phong bì ký hiệu “T”; thu giữ tại túi áo phía trước bên phải 01 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, chưa qua sử dụng, được niêm phong trong phong bì ký hiệu “T1”; thu giữ tại túi quần phía trước bên phải 02 xi lanh nhựa, 02 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, đều chưa qua sử dụng được niêm phong trong phong bì ký hiệu “T2 Ngày 05/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện B tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hà Văn T. Qua khám xét không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì. Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành cân xác định khối lượng chất màu trắng và màu hồng có trong phong bì ký hiệu “T” có tổng khối lượng 0,448g (Không phẩy bốn bốn tám gam). Sau khi cân, toàn bộ số chất màu trắng và màu hồng trên được gói trong 03 mảnh giấy trắng ký hiệu lần lượt A1, A2, A3 niêm phong trong phong bì ký hiệu “GĐ” gửi Cơ quan giám định.

Tại kết luận giám định số 28/KTHS-MT ngày 10/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất màu trắng và màu hồng trong gói giấy A1, trong phong bì ký hiệu GĐ gửi giám định là ma túy, loại Heroin và Methamphetamine, có khối lượng 0,354g (Không phẩy ba năm bốn gam); Mẫu chất màu hồng trong gói giấy A2, trong phong bì ký hiệu GĐ gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,040g (Không phẩy không bốn không gam); Mẫu chất màu trắng trong gói giấy A3, trong phong bì ký hiệu GĐ gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 0,054g(Không phẩy không năm bốn gam).

Tại Bản cáo trạng số16/CT- VKSBT ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/ BLHS.

* Điều luật có nội dung:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heroine, Methaphetamine, …. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

..” Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38/BLHS. Xử phạt bị cáo Hà Văn T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2022.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249/BLHS Phạt bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

Tch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 phong bì ký hiệu T66 có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn;

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu VC, bên trong chứa giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu;

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu T1, bên trong chứa 01 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, chưa qua sử dụng;

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu T2, bên trong chứa 02 xi lanh nhựa và 02 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, đều chưa qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi vi phạm như cáo trạng đã truy tố và không có khiếu nại về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự , thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự . Quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhưng người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Ti phiên tòa xác định: Do bản thân sử dụng và nghiện chất ma túy từ năm 2013,vào hồi 12 giờ 15 phút ngày 05/4/2022, tại khu vực thôn Đ, xã Q, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, bị cáo Hà Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,448g ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội . Xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, việc truy tố, xét xử bị cáo Hà Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/ BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất hành vi do bị cáo thực hiện là nguy hiểm, xâm phạm quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương vì vậy cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Bị cáo Hà Văn T có nhân thân xấu: Ngày 18/9/2013, bị Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, phạt tiền 1.500.000đ; ngày 20/10/2017, bị Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”, phạt tiền 2.500.000đ; Ngày 21/02/2022 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B khởi tố về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

[4]. Trong vụ án này bị cáo khai mua ma túy với người đàn ông khoảng 45 tuổi, do bị cáo T không biết tên, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điêu tra Công an huyện B không có cơ sở để xác minh.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có tài sản là quyền sử dụng đất do đó áp dụng khoản 5 Điều 249/BLHS phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước.

[6]. Về xử lý vật chứng:Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

- 01 phong bì ký hiệu T66 có đóng dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn; 01 phong bì niêm phong ký hiệu VC, bên trong chứa giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong ký hiệu T1, bên trong chứa 01 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, chưa qua sử dụng; 01 phong bì niêm phong ký hiệu T2, bên trong chứa 02 xi lanh nhựa và 02 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain 3%, chưa qua sử dụngđều không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc bật lửa và vỏ bao thuốc lá, Thúc đã vứt nên cơ quan điều tra không thu giữ được.

[7]. Về án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hộibị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố : Bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38/BLHS. Xử phạt bị cáo Hà Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2022.

* Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249/Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo 5.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T66”Cơ quan giám định hoàn trảbên trong có: Mẫu chất màu trắng và màu hồng trong gói giấy A1, trong phong bì ký hiệu “GĐ” còn lại0,290g (Không phẩy hai chín không gam); mẫu chất màu hồng trong gói giấy A2, trong phong bì ký hiệu “GĐ” còn lại 0,030g (Không phẩy không ba không gam); mẫu chất màu trắng trong gói giấy A3, trong phong bì ký hiệu “GĐ” còn lại 0,045g (Không phẩy không bốn năm gam), cùng phong bì bao gói cũ;

-01 phong bì niêm phong ký hiệu “VC” bên trong chứa giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu;

-01 phong bì niêm phong ký hiệu “T1” bên trong chứa 01 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain-3% chưa qua sử dụng;

-01 phong bì niêm phong ký hiệu “T2” bên trong chứa 02 xi lanh nhựa và 02 lọ dung dịch nhãn hiệu Novocain-3% đều chưa qua sử dụng.

Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.

* Về án phí: Áp dụngĐiều 136/BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Hà Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về