Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 188/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 405/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2021; Thông báo mở lại phiên tòa số 06/TB-TA ngày 17/01/2022 đối với:

Trần N T - Sinh năm: 1998 tại Bình Thuận.

Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Lạc Đ, thành phố Phan T, tỉnh Bình Thuận. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không. Trình độ học vấn: 8/12. Con ông: Trần Văn T, sinh năm: 1978, nghề nghiệp: Tài xế - Trú tại: tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và con bà Hứa N D, sinh năm: 1980. Nghề nghiệp: Buôn bán – Hiện đang trú tại thành phố Hồ Chí Minh. Chồng: Trịnh Bảo t, (chưa đăng ký kết hôn) sinh năm: 1989, nghề nghiệp: Buôn bán. Hiện cư trú: phường Mũi N, thành phố Phan Thiết. Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Bình Thuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 19/3/2021, Trần N T và Nguyễn Thị H đến phòng số 303 của khách sạn Đài T trên đường Trần Hưng Đ thuộc thành phố Phan T để chơi cùng Diệp Văn T, Ngô Gia K và Nguyễn Xuân T (không rõ nhân thân). Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T nhận được tin nhắn qua ứng dụng Telegram của N (không rõ nhân thân) với nội dung là hình ảnh giấy biên nhận gửi hàng của nhà xe Trung Nga lúc 14 giờ ngày 19/3/2021 và lời nhắn “E ra nhận đồ đi”, “Về em cân đồ với cân cái bị cho chị nha” thì T hiểu là N bảo T đến nhà xe Trung Nga nhận ma túy về cân giùm cho N nên T trả lời “Dạ” (tức đồng ý). Lúc này, T rủ H đi cùng T đến nhà xe Trung N để nhận đồ (H không biết mục đích của T là đi nhận gói ma túy) rồi T mượn T chiếc xe mô tô biển số 86C2-007.02 để H chở T đến khu vực phía trước nhà xe Trung N trên đường Nguyễn Hội thuộc khu phố 1, phường Phú Tài, thành phố Phan Thiết. Tại đây, H ngồi trên xe mô tô biển số 86C2-007.02 đợi còn T đi vào trong văn phòng nhà xe Trung N, nhận 01 hộp giấy được dán kín bằng băng keo màu vàng, trả tiền cước 20.000 đồng rồi T cầm hộp giấy trên tay trái đi ra nơi H đang đợi thì bị tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) – Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường Phú Tài bắt quả tang, thu giữ những tang vật có liên quan và đưa T về trụ sở làm việc. Tại đây, T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 hộp giấy được dán kín bằng băng keo màu vàng, kích thước khoảng (20 x 24 x 05) cm. Trên hộp có ghi tên người gửi “Shop đồ online N Tuấn”, người nhận “Chị My SĐT 0886073973 Đ/C Phan Thiết”. Bên trong hộp giấy có:

+ 01 gói nylon không màu có nhíp kéo một đầu màu đỏ, kích thước khoảng (07x10) cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong kí hiệu M1 khi giám định).

+ 01 gói nylon không màu có nhíp kéo một đầu màu đỏ, kích thước khoảng (04x07) cm, bên trong có 50 viên nén màu hồng hình dạng quả dâu (được niêm phong kí hiệu M2 khi giám định).

+ 02 áo thun màu trắng.

Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu vàng, bên trong có sim số 0886073973 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Janus, màu đỏ, biển số 86C2-007.02.

Tại kết luận giám định số 358/KLGĐ-PC09 ngày 25/3/2021, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 49,4789 gam, là Ketamine.

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 17,4345 gam, là MDMA.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: Gói nylon đã nêu tại mục II; 46,9378 gam mẫu Ketamin và 15,3156 gam (44 viên) mẫu MDMA còn lại sau giám định, được niêm phong trong phòng bì số 358, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Quá trình điều tra, Trần N T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, T khai nhận số ma túy mà T nhận là của một người tên N, nhờ T nhận dùm.

Tại bản cáo trạng số 188/CT-VKSPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố Trần N T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết phát biểu lời luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần N T từ 10 năm đến 11 năm tù. Đồng thời đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 358, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 hộp giấy được quấn kín bằng băng keo màu vàng, kích thước khoảng (20x24x05)cm, 02 cái áo thun trắng và tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, chứa 01 sim.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ảnh hưởng đến gia đình, xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân vi phạm pháp pháp luật, ảnh hưởng xấu đến xã hội, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo trở về với gia đình, bị cáo không có ý kiến về lời luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời khai nhận này của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 19/3/2021, tại khu vực sân trước nhà xe Trung N trên đường Nguyễn H, thuộc khu phố 1, phường Phú Tài, thành phố Phan Thiết, Trần N T có hành vi tàng trữ trái phép 49,4789 gam Ketamine và 17,4345 gam MDMA thì bị tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường Phú Tài kiểm tra, bắt quả tang.

Tại Cáo trạng số 188/CT-VKSPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 và tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo theo điểm h khoản 3 điều 249 Bộ luật Hình sự là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo nhận thức được “Ketamine” và “MDMA” là loại chất gây nghiện nằm trong danh mục nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, sử dụng …trái phép, vì hậu quả nguy hại của nó đối với sức khỏe con người trong cộng đồng và trật tự trị an xã hội. Tuy nhận thức được điều này nhưng bị cáo vẫn bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bất chấp hậu quả mà ma túy mang lại vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi của bị cáo Trần N T là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương. Xét thấy, với tình hình tội phạm về ma túy đang ngày một gia tăng, mà địa bàn thành phố Phan Thiết là một trong những địa phương có tình hình tội phạm về ma túy diễn biến hết sức phức tạp, thu hút nhiều con nghiện ở các địa phương khác đến mua bán, tàng trữ, sử dụng… ma túy, dư luận xã hội bất bình. Do đó, để đảm bảo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cũng như lập lại trật tự công cộng, cần thiết phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi quyết định hình phạt có xem xét cho bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo xét thấy: Bị cáo xác định số lượng ma túy khi bị bắt là của người tên Ngọc, tuy nhiên đây chỉ là lời khai của bị cáo, bị cáo cũng không biết được người tên N này ở đâu. Bị cáo, xác định việc bị cáo bị truy tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng, không oan. Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương nên cần xử lý bằng một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của của bị cáo, mức hình phạt này không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới. Ngoài ra mức hình phạt đối với bị cáo còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm chung.

[5] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Qua đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 3 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần N T từ 10 đến 11 năm tù. Xét lời đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật, tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét cho bị cáo có 02 con còn rất nhỏ, bị cáo đã ý thức được hành vi của mình là sai trái nên xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo, để tạo cho bị cáo một cơ hội để sửa chữa bản thân.

Đồng thời đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 358, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, 01 hộp giấy được quấn kín bằng băng keo màu vàng, kích thước khoảng (20x24x05cm); 02 cái áo thun trắng. Đồng thời, tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng chứa 01 sim do đây là vật bị cáo dùng để liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với số vật chứng, tài sản gồm: mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 358, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 hộp giấy được quấn kín bằng băng keo màu vàng, kích thước khoảng (20x24x05cm); 02 cái áo thun trắng nên tịch thu tiêu hủy đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng chứa 01 sim đây là tài sản bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điều 38; khoản 01 Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc T 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/3/2021.

2/ Biện pháp tư pháp: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 358, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 hộp giấy được quấn kín bằng băng keo màu vàng, kích thước khoảng (20x24x05cm);

02 cái áo thun trắng.

Tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng chứa 01 sim.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng tài sản số 40 ngày 08/12/2021)

3/Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần N T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/01/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về