Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 195/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 195/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố B mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 209/2021/HS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành C - Sinh năm 1977; Giới tính: Nữ.

- HKTT: Khu Yên Mẫn, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam - Bố: Nguyễn Trung T- Sinh năm 1946 (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1949.

- Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ 2.

- Chồng: Lê Hoàng T, sinh năm 1975; Con: có 2 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2001.

- Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2013/HSST ngày 28/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố B phạt bị cáo 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính, chưa chấp hành án phí và hình phạt bổ sung là phạt tiền).

- Tiền sự: Ngày 01/6/2017 bị TAND thành phố B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ngày 05/6/2019 chấp hành xong thời gian cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).

+ Người có quyền lợi liên quan: Anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1977, trú tại khu 4, phường Vệ An, thành phố B, tỉnh B (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 02/04/2021, tại khu 4, phường Vệ An, thành phố B, tỉnh B. Tổ tuần tra Công an phường Kinh Bắc, thành phố B phối hợp cùng Đội CSĐT tội phạm ma túy Công an thành phố bắt quả tang Nguyễn Thành C, sinh năm 1977, HKTT: Khu Yên Mẫn, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân:

Vật chứng thu giữ: Thu tại lòng bàn tay trái của C 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 01 viên nén màu đỏ và chất tinh thể màu trắng, tổ công tác tiến hành lập biên bản phạm pháp quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và gửi vật chứng đi giám định theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/04/2021, Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh B có Kết luận giám định số: 317/KLGĐMT- PC09, kết luận:

+ Chất tinh thể màu trắng trong 01túi nilon màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,3689 gam là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

+ 01 viên nén hình tròn màu đỏ trong 01 túi nilon màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,0975 gam là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra ban đầu C khai: Bản thân là người nghiện chất ma túy, khoảng 11 giờ 50 phút ngày 02/4/2021, C đang trên đường đi về nhà, khi về đến khu 4, phường Vệ An, thành phố B C nhìn thấy dưới đất có 01 túi nilon màu trắng C nhặt lên và mở ra thấy bên trong túi nilon có 01 viên nén hình tròn màu đỏ và chất tinh thể màu trắng, biết đây là ma túy nên C cất vào trong lòng bàn tay trái sau đó đi về nhà thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Sau đó C lại thay đổi lời khai về nguồn gốc túi nilon ma túy Công an thu giữ là của Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1977, trú tại khu 4, phường Vệ An, thành phố B, tỉnh B đưa cho vào ngày 02/4/2021 khi bị can đến nhà C dọn dẹp.

Làm việc với Nguyễn Mạnh C và cho C đối chất với Nguyễn Thành C, C trước sau khẳng định ma túy không phải là của C, C khai là của C cho C ma túy là không đúng.

Với nội dung trên, tại Bản cáo trạng số: 135/CT- VKSTP ngày 08/9/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B truy tố Nguyễn Thành C tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bản thân bị cáo nghiện chất ma túy, năm 2017 bị Tòa án nhân dân thành phố B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ngày 05/6/2019 bị cáo chấp hành xong biện pháp cai nghiện bắt buộc trở về với cộng đồng song do không chịu tu dưỡng rèn luyện bị cáo vẫn không từ bỏ được ma túy. Trưa ngày 02/4/2021 tại Khu 4 phường Vệ An bị cáo bị lực lượng công an kiểm tra và thu giữ trên người 0,4664gam ma túy là chất Methamphetamine, số ma túy này là do Nguyễn Mạnh C sinh năm 1977, trú tại khu 4, phường Vệ An, thành phố B đưa cho bị cáo để sử dụng, bị cáo thừa nhận hành vi của mình là có tội.

Cũng tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1, Điều 52, Điều 38, Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS;

Xử phạt bị cáo từ 24 đến 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/4/2021. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B Quá trình tranh luận bị cáo thừa nhận tội lỗi, không có ý kiến gì tranh luận hay đối đáp với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo không có ý kiến hay đề nghị gì.

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh B và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về tố tụng: Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng như việc truy tố bị can được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tuân thủ đúng theo quy định của BLTTHS. Hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can, người làm chứng được Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện khách quan, công tâm, không có việc ép cung, mớm cung hay dùng nhục hình.

2. Về tội danh: Lời khai và nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng là túi nilon màu trắng bên trong chứa 01 viên nén hình tròn màu đỏ và chất tinh thể màu trắng thu giữ được tại tay của bị cáo; Kết luận giám định về trọng lượng, loại chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh B... Đủ căn cứ khẳng định: Hành vi cất giấu trên người 0,4664gam là chất Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân của Nguyễn Thành C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là đúng tội, đúng người, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, ma túy còn là hiểm họa đối với xã hội, tác động xấu đến sức khoẻ, nhân cách và sự phát triển bình thường của con người. Xét nhân thân bị cáo thấý, bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy và có nhân thân xấu, năm 2013 bị TAND thành phố B phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” (bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính, chưa chấp hành án phí và hình phạt bổ sung là phạt tiền) nên theo quy định tại Điều 70 của BLHS bị cáo chưa được đương nhiên xóa án tích vì thế lần phạm tội này của bị cáo là “Tái phạm” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS, vì vậy với bị cáo cần phải có một mức án nghiêm cách lý bị cáo ra khỏi đòi sống xã hội mới đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

3. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt thấy: Bị cáo xuất thân từ gia đình có công với cách mạng, ông Nguyễn Trung Thành bố bị cáo là thương binh, quá trình điều tra và tại phiên tòa thái độ khai báo của bị cáo là thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS nên cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù, với bị cáo lẽ ra cần áp dụng thêm hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS. Song xét bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý, không có tài sản, thu nhập không ổn định, mục đích phạm tội không có tính vụ lợi nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

4. Xử lý vật chứng: Túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ tại tay trái của bị cáo qua giám định là chất Methamphetamine. Đây là các chất ma tuý Nhà nước nghiêm cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, sử dụng cần phải tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

Liên quan trong vụ án: Theo như bị cáo khai, nguồn gốc túi nilon ma túy Công an thu giữ tại lòng bàn tay của bị cáo là của Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1977, trú tại Khu 4, Vệ An, thành phố B đưa cho bị cáo vào ngày 02/4/2021, song tại phiên tòa C vắng mặt, tuy nhiên quá trình điều tra C không thừa nhận ma túy là của minh nên không đủ căn cứ xử lý C theo pháp luật.

5. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguuyễn Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 2 Điều 106, 135, 136, 299, 326, 327, 329, 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt: Nguyễn Thành C 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/4/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định theo Kết luận giám định số: 317/KLGĐMT- PC09 ngày 04/4/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh B.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có mặt quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 195/2021/HS-ST

Số hiệu:195/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về