TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 195/2021/HS-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 06 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 180/2021/HSST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Quốc C, sinh năm 1996 tại Bình Dương. Nơi cư trú: khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn X, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Phạm Diễm H, sinh năm 1975; bị cáo sống chung như vợ chồng với Vũ Thị Như N, sinh năm 1991, có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt, tạm giam ngày 05/02/2021 cho đến nay. Bị cáo có yêu cầu xét xử vắng mặt theo đơn ngày 17/7/2021.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Phạm Diễm H, sinh năm 1975; địa chỉ: khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Chí C. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 20 phút, ngày 05/02/2021 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Thuận An phối hợp công an phường An Phú tuần tra đến khu vực trước quán Massage T, đường D, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương phát hiện đối tượng Lê Quốc C điều khiển xe mô tô biển số 61D2 – 137.14 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng công an phát hiện bên trong túi vải màu đen C đang đeo trên người có 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet, bên trong vỏ gói thuốc lá có 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. C khai nhận là ma túy đá của Cường cất giấu nhằm mục đích sử dụng nên lực lượng công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tang vật thu giữ: 01 túi vải màu đen; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp); 01 xe mô tô biển số 61D2 – 137.14; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng- hồng.
Qua điều tra, bị cáo Lê Quốc C khai nhận vào ngày 04/02/2021, C đã sử dụng điện thoại di động của mình liên hệ qua mạng xã hội Zalo đặt mua 02 gói ma túy của 01 người thanh niên trong khu công nghiệp VSIP, thuộc phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương với giá 300.000đồng. Sau đó, C cất giấu ma túy bên trong 01 vỏ gói thuốc lá Jet rồi để gói thuốc trên trong túi vải của mình với mục đích sử dụng.
Ngày 09/02/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 82/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1230gam (M1); 0,4889gam (M2) (Tổng khối lượng: 0,6119 gam) loại Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 194/CT-VKS -TA ngày 02/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Lê Quốc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Quốc C từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Một bì thư niêm phong ghi số 82/MT-PC09 bên trong chứa chất ma túy sau khi giám định còn lại có khối lượng 0,506 gam loại Methamphetamine; 01 túi vải màu đen; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet là tang vật của vụ án, không có giá trị sử dụng nên đề xuất tịch thu, tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng-hồng thu giữ của bị cáo Lê Quốc C, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo C. Bị cáo đã sử dụng điện thoại trên để liên lạc mua ma túy về sử dụng nên đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Air Blade, biển số 61D2 – 137.14 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe trên do bà Nguyễn Phạm Diễm H, sinh năm 1975 đứng tên chủ sở hữu xe. Bà H cho bị cáo mượn chiếc xe trên vào ngày 04/02/2021 để đi công việc nhưng không biết C đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội, nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà H theo quy định.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã tiến hành xác minh tại khu vực trên nhưng không có thông tin đầy đủ về đối tượng này, nên không có cơ sở để xác minh xử lý.
Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Lê Quốc C có yêu cầu xét xử vắng mặt, đơn được Nhà tạm giữ công an thành phố Thuận An xác nhận ngày 17/7/2021. Xét thấy đây là yêu cầu tự nguyện của bị cáo, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử phù hợp với điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt bị cáo.
[2] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, biên bản giao nhận Cáo trạng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và trong nội dung đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 17/7/2021 bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên; của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[3] Trong biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/02/2021 (BL 1), bản tự khai ngày 05/02/2021 (BL 43) và các Biên bản ghi lời khai ngày 05/02/2021 (BL 45, 46), 10/02/2021 (BL 41), 20/02/2021 (BL 47, 48) và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 17/7/2021, bị cáo Lê Quốc C đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 05/02/2021, trước quán Massage T, đường D, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Lê Quốc C thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,6119 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.
Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Lê Quốc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Ma túy là loại chất gây nghiện nguy hiểm, người sử dụng ma túy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng đồng thời là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, tạo nên gánh nặng cho xã hội, gây tha hóa biến chất một bộ phận nhân dân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã cất giấu ma túy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[6] Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.
Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[7] Về xử lý vật chứng: Một bì thư niêm phong ghi số 82/MT-PC09 bên trong chứa chất ma túy sau khi giám định còn lại; 01 túi vải màu đen; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet, không có giá trị sử dụng là vật chứng trong vụ án nên tịch thu, tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng-hồng của bị cáo Lê Quốc C sử dụng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Air Blade, biển số 61D2 – 137.14 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe trên do bà Nguyễn Phạm Diễm H đứng tên chủ sở hữu xe. Bà H cho bị cáo mượn chiếc xe nhưng không biết bị cáo đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội, nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà H là đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136, điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Quốc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lê Quốc C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/02/2021.
2. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 82/MT-PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 túi vải màu đen; 01 vỏ bao gói thuốc lá Jet.
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu trắng-hồng, số IMEI 353814083259744.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/5/2021).
3. Về án phí:
Buộc bị cáo Lê Quốc C phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 195/2021/HS-ST
Số hiệu: | 195/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về