Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 194/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 194/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 27 tháng 07 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 235/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/HSST-QĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đào Văn N; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Sinh ngày: 22 tháng 02 năm 1987; tại thành phố V, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Khối Yên V, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên cha: Đào Văn L; sinh năm 1952; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Kim T; sinh năm 1959; Anh chị em ruột: Bị can là con duy nhất trong gia đình; Vợ: Hồ Thị N1; sinh năm 1993; Con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án: Ngày 20/8/2018 Tòa án nhân dân thành phố V, Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 01/5/2019; Tiền sự: Không; Bị can bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10 tháng 3 năm 2021 đến nay; Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 10 tháng 3 năm 2021, Đào Văn N đưa vợ đi khám tại Bệnh viện sản nhi tỉnh Nghệ An, thuộc phường H, thành phố V, Nghệ An thì gặp người đàn ông tên Cường; N và Cường quen biết nhau trong thời gian thi hành án tại trại giam số 6, Bộ công an (N chỉ biết tên, không rõ địa chỉ cụ thể). Qua nói chuyện N hỏi xin Cường một ít ma túy để sử dụng, Cường đồng ý và hẹn gọi điện lại sau. Đến khoảng 16 giờ ngày 10/3/2021, Cường gọi điện cho N và nói đi xuống ghế đá trước phòng chờ cấp cứu của Bệnh viện sản nhi để lấy ma túy. Đào Văn N đi xuống chỗ hẹn thì thấy 01 (một) ống nhựa màu đen có in chữ nước ngoài, mở ra bên trong có 05 (năm) gói ma túy. N cầm số ma túy trên bỏ vào hộp nhựa đựng đồ cạnh phanh tay trên xe ô tô BKS: 37A- 581.88 để sử dụng sau. Đến 23 giờ 20 phút ngày 10 tháng 3 năm 2021, N điều khiển xe ô tô trên đi về nhà mình, khi đi đến khu vực số 27 đường Lê Mao, phường LM, thành phố V, Nghệ An thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong hộp đựng đồ cạnh phanh tay trong xe ô tô 01 (một) ống nhựa màu đen có in chữ nước ngoài bên trong có 01 (một) gói ni lông màu trắng, bên trong cùng có chứa 01 gói chất tinh thể màu trắng lẫn màu đỏ; 04 (bốn) gói ni lông màu trắng, đều chứa chất tinh thể màu trắng và 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, bên trong có số thuê bao 0846260333; tổ công tác đã dẫn giải N cùng tang vật về trụ sở Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An lập biên bản bắt người phạm pháp quả tang. Qúa trình điều tra Đào Văn N đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định số 418/KL-PC09(Đ2 – MT) ngày 16/03/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An xác đinh:

- Mẫu chất tinh thể màu trắng lẫn chất bột màu đỏ (ký hiệu M1) và các chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M2 đến M5), thu giữ của Đào Văn N gửi tới giám định đều là ma túy (Methamphetamine).

- Chất tinh thể màu trắng lẫn chất bột màu đỏ thu giữ của Đào Văn N có khối lượng là 0,215 gam (không phẩy hai trăm mười lăm gam).

- Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đào Văn N có tổng khối lượng là 0,850 gam (không phẩy tám trăm năm lăm gam).

Tổng khối lượng chất ma túy methamphetamine của Đào Văn N là:

1,065 gam (một phẩy không trăm sáu mươi lăm gam).

Vật chứng vụ án: Thu giữ của Đào Văn N 05 (năm) gói ma túy (Methamphetamine), có tổng khối lượng 1,065 gam (một phẩy không trăm sáu mươi lăm gam), sau khi lấy mẫu gửi đi giám định khối lượng còn lại là 0,565 gam. 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, bên trong có số thuê bao 0846260333; thu giữ của Đào Văn N. Vật chứng vụ án được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố V.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI GRAND I10 màu vàng, biển số 37A-581.88, đã qua sử dụng, đây là chiếc xe thuộc sở hữu của chị Mai Thị N (sinh năm 1990, trú tại khối Trung Vĩnh, phường LM, thành phố V, tỉnh Nghệ An) cho N mượn nên cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chị M chiếc xe ô tô trên.

Bản Cáo trạng số 163/CT-VKS-TPV ngày 28 tháng 04 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Đào Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố tranh luận: giữ N quyết định truy tố bị cáo Đào Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đào Văn N từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine) thu giữ của Đào Văn N, là vật Nhà nước cấp tàng trữ, lưu hành nên đền nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của Đào Văn N đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.

Về án phí: buộc bị cáo Đào Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát thành phố V đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Đào Văn N khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 23 giờ 20 phút, ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại khu vực số 27 đường L, phường L, thành phố V, Nghệ An; Đào Văn N đang có hành cất giữ trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Nghệ An, phát hiện bắt quả tang, thu giữ của N 05 (năm) gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 1,065 gam (một phẩy không trăm sáu mươi lăm gam). Hành vi cất giữ ma túy với mục đích để sử dụng của Đào Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2.2]. Đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ sức khỏe và nhận thức, đã bị xử lý hình về tội phạm ma túy, thấy được tác hại do ma túy mang lại cho con người và xã hội nhưng bị cáo không phòng, tránh mà lại sa vào con phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 20/8/2018, Tòa án nhân dân thành phố V, Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 01/5/2019. Như vậy tính đến ngày phạm tội mới (10/3/2021) bị cáo chưa được được xóa án tích, nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo HĐXX thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia gia đình bị cáo có ông Đào Văn Lộc là bố của bị cáo là thương binh hạng 4/4, ngoài ra ông Đào Văn Lộc được Nhà nước tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp giao thông vận tải và Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có bà ngoại của bị cáo được nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật để cải tạo tốt, sớm qua lại với cộng đồng xã hội, trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[2.3] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy nghề nghiệp của bị cáo là lao động tự do, thu nhập và công việc không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của Đào Văn N về người đàn ông Cường cho bị cáo ma túy, do N không biết rõ địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[2.5]. Về vật chứng trong vụ án: Ma túy (Methamphetamine) thu giữ của bị cáo Đào Văn N là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của Đào Văn N đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu, hóa giá, sung quỹ nhà nước.

[2.6]. Bị cáo Đào Văn N phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Đào Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 10/03/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ vật chứng của Đào Văn N; Tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, máy đã qua sử dụng, hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/225 ngày 21/5/2021.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đào Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 194/2021/HS-ST

Số hiệu:194/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về