Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

*Vũ Đình T, sinh năm 1982; HKTT: Thôn G, xã HB, huyện TT, Thành Phố H; Nơi cư trú: Thôn G, xã HB, huyện TT, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình B và bà Nguyễn Thị H; có vợ và 02 con;

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ công an huyện P, thành phố H. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Yến H, sinh năm 1997 (Vắng mặt) HKTT: Thôn G, xã HB, huyện TT, thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 27/12/2023 do muốn sử dụng ma túy nên Vũ Đình T đến nhà cháu gái là Nguyễn Yến H, sinh năm 1997 (cách nhà T 20m) hỏi mượn 01 xe máy kiểu dáng Honda Vision màu trắng BKS 29V5-xxxxx, với lý do mượn xe đi chút việc. Sau khi mượn được xe máy, T điều khiển xe đến đoạn đường tỉnh lộ 421, gần cây xăng xã LH, huyện P, thành phố H để mua ma túy Heroine. Tại đây, T gặp một người đàn ông và đưa 200.000 đồng để mua ma túy, T nhận được 01 túi ni lông nhỏ trong suốt kích thước khoảng (1,5 x1,5)cm bên trong chứa chất bột màu trắng. Sau đó T đi khoảng 200m hướng về kênh Tây Ninh và sử dụng một ít từ gói ma túy vừa mua được. T cất số ma túy còn lại vào túi quần bên phải rồi đi đến dốc đê gần đường tỉnh lộ 421, khu vực Thôn 4, xã LH thì bị lực lượng Công an xã LH phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm:

“- 01 gói nilon trong suốt kích thước (1,5x1,5)cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Đình T (T khai nhận là ma túy heroine);

- 01 xe máy kiểu dáng Honda Vision màu trắng, đã qua sử dụng; BKS: 29V5- xxxxx;

- 01 điện thoại di động kiểu dáng TECNO SPARK màu trắng đã cũ;

- Số tiền 50.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành;

Tại bản kết luận giám định số 95/KL-KTHS ngày 03/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố H, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy ni lông là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,132 gam”.

Về nguồn gốc ma túy: Vũ Đình T khai số ma túy trên mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ trông dáng vẻ người nghiện. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy không đề cập xử lý trong vụ án này.

Về xử lý vật chứng, vấn đề dân sự:

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu kiểu dáng Honda Vision màu trắng BKS 29V5- xxxxx, thu giữ của T. Quá trình điều tra, làm rõ là tài sản hợp pháp của Nguyễn Yến H, sinh năm 1997, HKTT: Thôn G, xã HB, huyện TT, thành phố H. Ngày 27/12/2023 chị H cho T mượn. Khi cho mượn xe, chị H không biết T sẽ sử dụng chiếc xe làm pH tiện để đi mua ma túy. Do đó ngày 05/02/2024, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H chiếc xe máy BKS: 29V5-xxxxx, nay không có ai yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố H bên trong chứa gói ma túy đã giám định; 01 điện thoại di động nhãn hiệu TECNO màu SPARK, đã qua sử dụng; Số tiền 50.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành thu của T, chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

Tại Bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 29 tháng 02 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Thành phố H truy tố bị cáo Vũ Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vũ Đình T. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự để nghị xử phạt bị cáo T từ 12 - 15 tháng tù.

Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy đối với:

- Một phong bì niêm phong của Phòng PC09-Công an TP H, bên trong chứa mẫu vật chứng, bên ngoài có chữ ký của giám định viên, của Vũ Đình T;

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu TECNO SPARK màu trắng, đã qua sử dụng; Số tiền 50.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành; là tài sản hợp pháp của bị cáo T nên trả lại cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 27/12/2023, tại khu vực xã LH, huyện P, thành phố H, khi Vũ Đình T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,132 gam ma túy loại Heroin thì bị tổ công tác Công an xã LH, huyện P phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ, kinh tế của bản thân mà còn tiếp tay cho các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma tuý, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại thời điểm phạm tội, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Vũ Đình T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy bị cáo không có đủ điều kiện để tự cải tạo ngoài môi trường xã hội bình thường mà cần thiết phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có khả năng giáo dục, cải tạo bị cáo, làm gương cho người khác. Viện kiểm sát nhân dân huyện P đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ; Do đó Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điều 38 của Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn là phù hợp.

Xét thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với người nam thanh niên bán ma túy cho T cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không làm rõ được nên không có căn cứ để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng và Biện pháp tư pháp:

Đối với 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố H bên trong chứa gói ma túy đã giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu TECNO SPACK màu trắng, đã qua sử dụng; Số tiền 50.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành là các tài sản hợp pháp của bị cáo T nên trả trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Đình T 14 (Mười bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/12/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong dán kín của PC09 - Công an thành phố H, bên ngoài có chữ ký của Vũ Đình T, chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Chinh, chữ ký của đ/c Nguyễn Văn Nghĩa là cán bộ công an xã LH.

Trả lại cho bị cáo T các tài sản gồm: 01 điện thoại di động kiểu dáng TECNO SPARK màu trắng, đã cũ; Số tiền 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

(Vật chứng được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện P, Thành phố H theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/3/2024 và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 01/3/2024).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Vũ Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2024/HS-ST

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về