Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại nhà văn hóa xóm Đẩu, xã Yên Lạc, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:20/2022/TLST-HS ngày 19/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST-HS ngày 05/5/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quý D, tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/7/1964, tại xã Đ, huyện P, tỉnh T.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm K, xã Đ, huyện P, tỉnh T.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 7/10;

Con ông: Phạm Quý T1 (đã chết) và bà Trương Thị S (đã chết); Có vợ là Bùi Thị D1, sinh năm 1965 và 02 con.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Tại Bản án số 28/2019/HS-ST ngày 13/5/2019 của TAND huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Quý D 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/10/2020.

Nhân thân: Tại Quyết định 4131/QĐ-UBND ngày 25/11/2011 của Chủ tịch UBND huyện Phú Lương đưa Phạm Quý D đi cai nghiện bắt buộc thời hạn là 18 tháng.

Tại Quyết định 05/QĐ-TA ngày 18/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương áp dụng biện pháp hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc đối với Phạm Quý D với thời hạn là 18 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Phú Lương.(có mặt).

- Người chứng kiến:

Ông Chu Viết T2, sinh năm 1978.

Trú tại: Xóm Đ1, xã Đ, huyện P, tỉnh T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ ngày 10/01/2022, tổ công tác Công an xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực xóm Đồng Nghè 1, xã Động Đạt phát hiện Phạm Quý D có biểu hiện liên quan đến tội phạm về ma túy. Qua kiểm tra phát hiện tại túi áo khoác phía trong bên trái của D có 01 gói chất bột màu trắng được gói bên ngoài bằng lớp giấy bạc màu vàng. D khai đó là ma túy, loại heroin. Tổ Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D và thu giữ vật chứng niêm phong ký hiệu M và đưa D và vật chứng về cơ quan CSĐT- Công an huyện Phú Lương giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày, tại phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của D là 0,132 gam, niêm phong toàn bộ ký hiệu A1 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 215/KL-KTHS ngày 18/01/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,132 gam.

Quá trình điều tra, D khai nhận: Bản thân D là người nghiện ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 10/01/2022, D đi bộ từ nhà ra QL3 bắt xe buýt xuống khu vực xóm Bờ Đậu, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, D gặp người đàn ông khoảng 40 tuổi, D không biết tên và địa chỉ. D hỏi mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy D cất gói ma túy vào túi áo khoác và bắt xe buýt về nhà. Khi đến thị trấn Đu, D xuống xe đi bộ vào xóm Đồng Nghè 1, xã Động Đạt tìm nơi sử dụng ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,123 gam mẫu A1 và vỏ bao gối mẫu A1 hoàn trả lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 01 vỏ bì niêm phong ký hiệu M và vỏ giấy gói. Vật chứng hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSPL ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Phạm Quý D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại D Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương giữ nguyên Quyết định truy tố đối với Phạm Quý D, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Quý D mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng và buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận: Bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Lương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ buộc tội:

- Bị cáo D khai: Bản thân bị cáo nghiện ma túy từ năm 2000. Khoảng 16 giờ ngày 10/01/2022 bị cáo đi bộ từ nhà ra QL3 bắt xe buýt xuống khu vực xóm Bờ Đậu, xã Cổ Lũng tìm mua ma túy về sử dụng. Khi xuống đến nơi bị cáo mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo cất giấu trong túi áo phía trong bên trái và bắt xe buýt về nhà. Khi đến xóm Đồng Nghè 1 bị cáo tìm nơi sử dụng thì bị Công an xã Động Đạt bắt quả tang. Mục đích bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân.

- Lời khai của người chứng kiến.

- Kết luận giám định xác định chất bột thu giữ của D là ma túy, loại heroine có khối lượng là 0,132 gam.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Nội dung điều luật quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a.… c. Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật quy định

[3] Xét tính chất hành vi của bị cáo là nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách quản lý về ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đó là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo là người nghiện ma túy, đã có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hơn ai hết, bị cáo là người hiểu rõ tác hại của ma túy và hình phạt đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy cần xử bị cáo mức án từ 36 đến 42 tháng như đề nghị của VKS là phù hợp.

Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập không ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,123 gam mẫu A1 và vỏ bao gối mẫu A1 hoàn trả lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 01 vỏ bì niêm phong ký hiệu M và vỏ giấy gói.

[8] Về án phí: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án người bán ma túy cho D, D khai không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Lương không có đủ cơ sở để xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 136, 331, 333, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quý D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Quý D 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính ngày tạm giữ, tạm giam 10/01/2022.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A1, bên ngoài ghi: Hoàn trả 0,123 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1 vụ: Phạm Quý D, SN:1964 - phạm tội về ma túy; 01 (một) bì niêm phong ký hiệu A2, bên ngoài ghi: Bên trong có 01 vỏ bì niêm phong ký hiệu M và vỏ giấy gói vụ Phạm Quý D.

(Đặc điểm, tỉnh trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 38 ngày 21/4/2022 giữa Công an huyện Phú Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Lương) 3. Án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về