Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 04 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST- HS ngày 16/02/2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Phạm Văn Th; Tên gọi khác: Không; Giới tính:Nam; Sinh ngày 08 tháng 9 năm 1988; Quê quán: phường X, thị xã X, tỉnh Hà Tĩnh; Trú quán và chỗ ở hiện nay: tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Phạm Quốc H, sinh năm 1958; Con bà: Phan Thị A, sinh năm 1958; Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không.

Tiền sự: Năm 2021, bị Ủy ban nhân dân phường Hưng Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính: Giáo dục tại cấp phường 03 tháng, về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, Theo Quyết định số 159, ngày 28/6/2021 của Chủ tịch UBND phường Hưng Trí, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Quá trình nhân thân: Năm 2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 19 ngày 06/6/2018; đã chấp hành xong bản án vào ngày 16/4/2019 và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 26/12/2021, đến ngày 29/12/2021 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Kỳ Anh sau đó chuyển trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay(Có mặt)

- Người chứng kiến:

1. Phan Công D, sinh năm 1962; địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, (vắng mặt)

2. Lê Văn H, sinh năm 1961; địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:Cán bộ, chiến sỹ tại điểm cầu thành phần hỗ trợ phiên tòa: Đồng chí Nguyễn Minh H, Đội phó Đội Cảnh sát bảo vệ - Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ 40 phút, ngày 26/12/2021, tại phía ngoài cổng nhà bà Phạm Thị L, ở tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Tổ tuần tra Công an thị xã Kỳ Anh bắt quả tang Phạm Văn Th đang cất dấu một gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng để trong túi quần đang mặc; Phạm Văn Th khai nhận đó là ma túy, Phạm Văn Th mua của một người không quen biết ở thành phố Hà Tĩnh để về sử dụng. Tổ tuần tra Công an thị xã Kỳ Anh đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói chất tinh thể rắn màu trắng và đưa Phạm Văn Th về Công an thị xã Kỳ Anh để điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra, Phạm Văn Th khai nhận: Do nghiện ma túy nên tối ngày 24/12/2021, trong khi đi chơi lễ Noen tại thành phố Hà Tĩnh, Phạm Văn Th gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ họ tên, địa chỉ. Qua nói chuyện biết người này nghiện ma túy nên Phạm Văn Th đưa cho người đàn ông này 1.000.000 đồng để nhờ đi mua Kentamine để về sử dụng. Khoảng 30 phút sau, người này quay lại và đưa cho Phạm Văn Th 01 gói nilon màu trắng đựng 01 gói Kentamine, Phạm Văn Th bỏ vào túi quần của mình rồi đi về. Sau khi về nhà, Phạm Văn Th vẫn để gói ma túy trong túi quần của mình để khi nào cần thì sử dụng. Đến 15 giờ ngày 26 tháng 12 năm 2021, Phạm Văn Th bỏ gói ma túy vào túi quần của mình rồi đi xe taxi đến nhà bà Phạm Thị L, ở tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh chơi. Đến 15 giờ 40 phút cùng ngày, Phạm Văn Th từ nhà bà Phạm Thị L đi ra để tìm nơi sử dụng ma túy nhưng khi v a ra khỏi nhà bà Phạm Thị L thì bị Tổ tuần tra Công an thị xã Kỳ Anh phát hiện bắt giữ.

Tại kết luận giám định số 39/GĐMT-PC09 ngày 29/12/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể rắn màu trắng ở trong 01 gói nilon màu trắng thu giữ của Phạm Văn Th gửi đến giám định là Kentamine, có khối lượng 10,9741gam. Kentamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã thu giữ của Phạm Văn Th các vật chứng bao gồm: 01 túi nilon màu trắng, k ch thước 10 x 0,7 cm, bên trong có 01 gói nilon màu trắng k ch thước (10,5 x 0,8 cm đựng chất tinh thể rắn màu trắng, có khối lượng 10,9741 gam Kentamine (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0280 gam; Còn lại 10,9461 gam, đã đóng gói niêm phong); Đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kỳ Anh chờ xử lý.

Tại Cáo trạng số 08/CT –VKSTXKA ngày 17/01/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh đã truy tố bị cáo Phạm Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”,theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Đề nghị áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Văn Th mức án từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 26/12/2021, đề nghị tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án; Do bị cáo là con nghiện, chưa có việc làm và thu nhập, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự ; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng: 01 túi nilon trong suốt chứa 10,9741 gam chất ma túy Kentamine (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0280 gam; Còn lại 10,9461 gam, đã đóng gói niêm phong); Về án phí: Bị cáo Phạm Văn Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng th a nhận hành vi phạm tội của mình không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ khác có tại hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận: Tối ngày 24/12/2021, Phạm Văn Th đi ra thành phố Hà Tĩnh nhờ một người đàn ông không quen biết mua hộ 01 gói Kentamine với giá 1.000.000 đồng để về sử dụng. Đến chiều ngày 26/12/2021, Phạm Văn Th bỏ gói ma túy vào túi quần của mình rồi đi xe taxi đến nhà bà Phạm Thị L, ở tổ dân phố 1, phường Hưng Tr , thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh chơi. Đến 15 giờ 40 phút cùng ngày, Phạm Văn Th đi từ nhà bà Phạm Thị L đi ra để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Tổ tuần tra Công an thị xã Kỳ Anh phát hiện bắt giữ.

Hành vi tàng trữ Kentamine với khối lượng 10,9741 gam của bị cáo Phạm Văn Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, Người nào tàng trữ trái phép các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm . Do đó việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến ch nh sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn làm mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ng a chung đối với xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Phạm Văn Th không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Xét thấy, bị cáo Phạm Văn Th là người có nhân thân xấu, đã t ng bị xét xử về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đang có tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nên có đủ khả năng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do không làm chủ được bản thân nên lao vào con đường nghiện ngập, do vậy cần xét xử một mức án nghiêm và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ng a chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền t 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định t 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là con nghiện, lao động tự do, không có thu nhập. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, bị cáo khai nhận số ma túy bị cáo tàng trữ để sử dụng do người đàn ông không quen biết(không rõ họ tên, địa chỉ) bán cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên không có căn cứ để xử lý. Kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo luật định.

[7] Về xử lý vật chứng:

01 túi nilon trong suốt chứa 10,9741 gam chất ma túy Kentamine (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0280 gam; Còn lại 10,9461 gam, đã đóng gói niêm phong)là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự ; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí , lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1.Về tội danh và mức hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt Phạm Văn Th 42 (Bốn hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 26/12/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01(một) túi nilon trong suốt chứa 10,9461 gam chất ma túy Kentamine, cùng toàn bộ vỏ bao gói được niêm phong trong 01 phong bì thư màu trắng, trên có dòng chữ CÔNG AN TỈNH HÀ TĨNH, PHÒNG KỶ THUẬT HÌNH SỰ, dán kín, trên mép có các chữ ký của các thành viên hội đồng và bị cáo Phạm Văn Th.

(Tình trạng vật chứng trên có tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/01/2022 giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kỳ Anh)

3. Về án ph : Bị cáo Phạm Văn Th phải nộp 200.000 đồng Hai trăm nghìn đồng án ph hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về