Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 188/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 179/2022/TLST-HS, ngày 09 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 199/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành T (Tên gọi khác: T); Giới tính: Nam; Sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: Ấp 2A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Ấp 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Tr và bà Nguyễn Thị Mọi N; Bị cáo có vợ và 02 người con sinh năm 2008 và 2011; Tiền án: Không;

Tiền sự:

+ Ngày 19/12/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A, huyện B ban hành Quyết định số 1312/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 29/12/2019, Công an xã A huyện B ban hành Quyết định số 0011599/QĐ-XPHC xử phạt hành chính bị cáo số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã đóng phạt ngày 29/6/2020.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2021. (có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1990; Nơi cư trú: ấp B, xã H, Thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

2/ Bà Lê Thị V, sinh năm 1984; Nơi cư trú: khu phố 22, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 15/11/2021, Công an xã A, huyện B tiến hành kiểm tra phòng trọ của Nguyễn Thành T thuê tại địa chỉ nhà không số Tổ 10, Ấp 3, xã A, huyện B. Thời điểm kiểm tra, trong phòng trọ có Nguyễn Thành T và Nguyễn Thị L. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện, thu giữ 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu để trong 01 hộp kim loại (bên trên có ghi chữ SENATOR) đặt trên bàn sắt mà T khai nhận là ma túy tổng hợp T mua về cất giữ để sử dụng, nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Kết quả test nhanh cho thấy bị cáo và L đều dương tính với ma túy loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số 6198/KLGĐ-MT ngày 23/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4800g, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, T khai nhận T thuê nhà trọ ở địa chỉ nhà không số Tổ 10, Ấp 3, xã A, huyện B từ giữa tháng 10/2021 và cho L ở cùng. Trong thời gian chung sống, thỉnh thoảng T và L cùng hùn tiền mua ma túy về sử dụng chung nhiều lần. Chiều ngày 14/11/2021, do đã hết ma túy để sử dụng, T điện thoại zalo cho người thanh niên tên H (chưa rõ lai lịch) hỏi mua gói ma túy đá giá 300.000 đồng, H đồng ý và hẹn giao ma túy tại ngã tư đường P và đường Q thuộc Ấp 4, xã A, huyện B. Khi T đến điểm hẹn thì gặp T1 (chưa rõ lai lịch, là người giao ma túy giúp H) và đưa cho T1 300.000 đồng, nhận của T1 01 gói ma túy đá rồi quay về nhà trọ; Trên đường về, T cho bạn tên T2 (chưa rõ lai lịch) mượn điện thoại di động rồi về nhà trọ bỏ gói ma túy đá nêu trên vào 01 hộp sắt vuông (bên trên có ghi chữ SENATOR) để trên bàn sắt tròn. Khoảng 12 giờ ngày 15/11/2021, khi T và L đang ở trong nhà trọ thì bị lực lượng Công an xã A, huyện B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. T xác định gói ma túy đá bị thu giữ là của riêng T mua về để sử dụng (L không có hùn tiền), lúc T mới đem gói ma túy về nhà trọ thì có nói cho L nghe rồi cất vào trong hộp sắt, L không có nói gì và cũng không đụng vào hộp sắt này. Lời khai nhận tội của T phù hợp với vật chứng thu được, lời khai người liên quan Nguyễn Thị L, kết quả đối chất, kết quả giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 06/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thành T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Về vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong còn lại sau giám đinh và 01 hộp kim loại (bên trên có ghi chữ SENATOR).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Trưa ngày 15/11/2021, bị cáo Nguyễn Thành T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4800g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine nên bị bắt quả tang tại nhà không số Tổ 10, Ấp 3, xã A, huyện B, số ma túy này bị cáo tàng trữ để sử dụng. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Thành T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên, bị cáo từng bị xử lý về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Quá trình điều tra, T khai nhận đã nhiều lần cùng L hùn tiền mua ma túy để sử dụng chung. Qua xác minh cho thấy L đã đi khỏi nơi cư trú; Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định được thời gian, không thu được ma túy để xác định loại, khối lượng và cũng không thu được công cụ, phương tiện dùng cho việc sử dụng ma túy, nên chưa có cơ sở để xử lý T về tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” hay “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

[5] Đối với hành vi của Nguyễn Thị L: Quá trình điều tra L và T đều khai nhận là ma túy bị thu giữ là của T mua của một người không rõ lai lịch và về để trên bàn tại phòng trọ để cả hai cùng sử dụng chung. Trước khi để ma túy trên bàn, T có nói cho L biết là ma túy được cất giữ trong hộp sắt đặt trên bàn. Tuy nhiên, L khai không tham gia hùn tiền mua ma túy với T; chủng loại, số lượng ma túy bị thu giữ thế nào L không biết rõ; L không nhận giữ ma túy và L chưa sử dụng số ma túy này. Qua xác minh, L đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa đủ chứng cứ xem xét xử lý vai trò đồng phạm của L trong vụ án.

[6] Đối với người thanh niên có tên H và T1 đã bán ma túy cho T do chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.

[7] Đối với việc bị cáo T chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị L, khi T đang có vợ là Trần Thị Thu V: Qua xác minh cho thấy T chưa có tiền sự về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng nên chưa đủ căn cứ xử lý hình sự; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã thông báo về chính quyền địa phương nơi cư trú để xử lý theo thẩm quyền đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

[8] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thành T, điều tra viên, người chứng kiến và hình dấu của Công an xã A; bên trong có chứa ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 hộp kim loại (bên trên có ghi chữ SENATOR): Vật này không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2021.

* Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thành T, điều tra viên, người chứng kiến và hình dấu của Công an xã A, huyện B, bên trong có chứa ma túy còn lại sau giám định.

- 01 hộp kim loại (bên trên có ghi chữ SENATOR) (Các vật chứng trên đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 21/4/2022 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

* Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thành T chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

Số hiệu:188/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về