Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 188/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 192/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 9 năm 2022. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2022/QĐXXST-HS ngày 13/9/2022 đối với bị cáo:

Tống Văn T, sinh năm: 1991; HKTT: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Tống Văn T, sinh năm 1960; Con bà: Vũ Thị Đ, sinh năm 1962; Gia đình có 02 anh em. Bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Tống Thị Kim D, sinh năm 1999; Có 01 con; Tiền án; tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 28/5/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 27/5/2022, tổ công tác Công an phường Mễ Trì đang làm nhiệm vụ tại đầu ngõ 116 Miếu Đầm, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội phát hiện Tống Văn T đang ngồi trên xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, BKS: 36N7-X trong ngõ 116 Miếu Đầm có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu kiểm tra, T nhả từ trong miệng ra 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Tại chỗ, T khai đó là ma túy “đá” T mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và dẫn giải T cùng vật chứng về trụ sở làm việc.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nilon trong suốt bên trong có tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A lắp sim số 0867636X (đã qua sử dụng).

- 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, BKS 36N7 – X số máy: 5C63092935, số khung: 5C6308Y092935 (đã qua sử dụng).

Quá trình điều tra xác định:

Tống Văn T là đối tượng sử dụng ma túy “đá” (Methamphetamine). Qua mạng xã hội facebook, T quen và được biết người sử dụng tài khoản facebook “K” (không rõ nhân thân) có bán ma túy “đá”. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27/5/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T đã gọi và nhắn tin qua ứng dụng messenger cho “K” hỏi mua 500.000 đồng ma túy “đá”, hẹn đến ngày 10/6/2022 sẽ trả tiền, “K” đồng ý và bảo T đến ngõ 116 Miếu Đầm, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội để lấy ma túy. Sau đó, T một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, BKS 36N7 – X từ nơi ở tại công trường xây dựng KĐT Vinhomes Văn Giang, Hưng Yên – nơi T đang làm việc đến điểm hẹn. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày T đến đầu ngõ 166 Miếu đầm và gọi cho “K” thì được hướng dẫn lấy túi ma túy “đá” ở dưới khẩu trang màu xanh đặt cạnh lốp xe ô tô Matiz đang dừng đỗ phía trong ngõ. Lấy được gói ma túy “đá”, T cho gói ma túy vào miệng ngậm rồi lên xe chuẩn bị đi thì bị Tổ công tác Công an phường Mễ Trì phát hiện và bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 3611 ngày 04/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, xác định: chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,647 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Tống Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Tống Văn T, sử dụng tài khoản facebook “K” (như T khai). Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, BKS 36N7 – X, số máy: 5C63092935, số khung: 5C6308Y092935 thu giữ của T khi bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định: Người đứng tên đăng ký là chị Bùi Thị Thu H (SN: 1983; HKTT: 32 L, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa). Xác minh tại Công an phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa, được cung cấp: chị H và gia đình đã đi nơi khác sinh sống, hiện không biết cư trú ở đâu. Tống Văn T khai mượn chiếc xe trên của em gái là Tống Thị T (SN: 1992; HKTT: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa). Chị T khai mua chiếc xe trên của chị Bùi Thị Thu H vào đầu năm 2021 với giá 5.000.000 đồng, do bận việc cá nhân nên chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Khoảng giữa tháng 5/2022, chị T cho Tống Văn T mượn chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, không biết T sử dụng để đi mua ma túy. Chị T đã xuất trình 01 đăng ký xe máy mang tên Bùi Thị Thu H, có thông tin trùng khớp với chiếc xe máy nêu trên. Tra cứu xe tang vật xác định không có trong hệ thống quản lý xe vật chứng. Ngày 22/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 130, trao trả chiếc xe trên cho chị Tống Thị T là chủ sở hữu hợp pháp. Chị T nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Tại Bản cáo trạng số 193/QĐ-VKSNTL ngày 08/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Tống Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Tống Văn T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Tống Văn T từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/5/2022.

Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Tống Văn T và giám định viên.

- Sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A lắp sim số 0867636X.

Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tram truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với bản kết luận giám định số 3611 ngày 04/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội và các biên bản, tài liệu khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ.

[3] Những chứng cứ trên đây đủ cơ sở xác định:

Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 27/5/2022, tại ngõ 116 Miếu Đầm, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Tống Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,647 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Mễ Trì phát hiện và bắt giữ.

Hành vi của Tống Văn T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, ông nội bị cáo là ông Tống Văn Q đã được tặng huy chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất, đây là các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Tống Văn T, sử dụng tài khoản facebook “K” (như T khai). Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen, BKS 36N7 – X, số máy: 5C63092935, số khung: 5C6308Y092935 thu giữ của T khi bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định: Người đứng tên đăng ký là chị Bùi Thị Thu H (SN: 1983; HKTT: 32 L, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa). Xác minh tại Công an phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa, được cung cấp: chị H và gia đình đã đi nơi khác sinh sống, hiện không biết cư trú ở đâu. Tống Văn T khai mượn chiếc xe trên của em gái là Tống Thị T (SN: 1992; HKTT: xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa). Chị Tâm khai mua chiếc xe trên của chị Bùi Thị Thu H vào đầu năm 2021 với giá 5.000.000 đồng, do bận việc cá nhân nên chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Khoảng giữa tháng 5/2022, chị T cho Tống Văn T mượn chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, không biết T sử dụng để đi mua ma túy. Chị T đã xuất trình 01 đăng ký xe máy mang tên Bùi Thị Thu H, có thông tin trùng khớp với chiếc xe máy nêu trên. Tra cứu xe tang vật xác định không có trong hệ thống quản lý xe vật chứng. Ngày 22/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 130, trao trả chiếc xe trên cho chị Tống Thị T là chủ sở hữu hợp pháp. Chị Tâm nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt tiền cho bị cáo. [6] Về vật chứng vụ án:

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Tống Văn T và giám định viên cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A lắp sim số 0867636X cần sung công quỹ nhà nước.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Tống Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Tống Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt: Tống Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/5/2022.

*Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của Tống Văn T và giám định viên.

Sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy A màu đen gắn thẻ sim (A20S) Theo biên bản giao nhận vật chứng số 228 ngày 09/9/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

* Về án phí: Bị cáo Tống Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 188/2022/HS-ST

Số hiệu:188/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về