Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 đối với:

1. Bị cáo: Đặng A T; tên gọi khác: không; sinh ngày 29/11/1988 tại huyện Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Thôn 1, xã Đ1, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; giới tính: nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 05/12; con ông: Đặng Văn T (đã chết) và bà Chìu Nhì M; vợ: Chíu Tài M (đã ly hôn), vợ: Chíu Nhì M (đã ly hôn); con: có 02 con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/01/2022, hiện đang tạm giam, có mặt.

2. Người làm chứng:

+ Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1990.

Địa chỉ: thôn 1, xã Đ1, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

+ Anh Đặng Dảo T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: thôn 1, xã Đ1, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

3. Người chứng kiến: anh Dường Chống S, sinh năm 1972. Địa chỉ: thôn 8, xã Đ1, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua mạng xã hội, Đặng A T quen biết một người đàn ông tên Đ (không rõ lai lịch, địa chỉ), T thường được Đ cho ma túy đá để sử dụng. Khoảng 22 giờ ngày 28/01/2022, qua việc hẹn trước với Đ, T một mình đi đến khu vực cầu K thuộc thôn 1, xã Đ1, huyện H lấy 01 túi ma túy đá được Đ giấu sẵn ở khu vực đó để đem về sử dụng. Lấy được túi ma túy, T đi đến nhà anh Phạm Văn Đ thuộc thôn 1, xã Đ1, huyện H tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Tổ công tác Công an huyện H phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của T 01 túi nilon kích thước (02x2,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là ma túy; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo và 01 căn cước công dân.

Tại bản kết luận giám định số 360/KLGĐ ngày 06/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đặng A T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,227g.

Quá trình điều tra, Đặng A T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Tại phiên tòa, Đặng A T khai: Bị cáo quen biết một người tên Đ ở thị trấn Q qua mạng xã hội nhưng không biết nhà Đ và lai lịch của Đ. Ngày 28/01/2022, Đ gọi điện cho bị cáo rủ cùng sử dụng ma túy với Đ, bị cáo đồng ý, đến tối cùng ngày, Đ gọi điện lại bảo Đ có việc không sử dụng được mà để ma túy ở khu vực biển báo cầu K và bảo bị cáo đến lấy về sử dụng. Khoảng 22 giờ, bị cáo đi đến khu vực cầu K lấy 01 gói ma túy Đ giấu ở đó rồi mang về nhà Phạm Văn Đ ở thôn 1, xã Đ1 nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Người làm chứng Phạm Văn Đ và Đặng Dảo T, người chứng kiến Dường Chống S vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo về thời gian, địa điểm Tổ công tác Công an huyện H bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép ma túy đá của bị cáo.

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 15 phút ngày 28/01/2022 tại Công an xã Đ1 thể hiện: Vào hồi 22 giờ 05 phút ngày 28/01/2022, Công an xã Đ1 phối hợp với Công an huyện H làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, phát hiện tại nhà anh Phạm Văn Đ tại thôn 1, xã Đ1 đối tượng Đặng A T cầm tại tay trái 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T khai là ma túy đá, mục đích cất giấu để sử dụng.

Tại cáo trạng số 18/CT-VKSHH ngày 15/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố Đặng A T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện H vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Đặng A T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 28/01/2022. Về vật chứng vụ án: đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,17gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định, tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen bị cáo sử dụng liên lạc lấy ma túy của Đ, trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Đặng A T.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:lời khai nhận tội của bị cáo Đặng A T tại phiên tòa cơ bản rõ ràng, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo khẳng định lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, mớm cung, đánh đập, do đó đủ cơ sở xác định: khoảng 22 giờ 00 phút ngày 28/01/2022, tại khu vực thôn 1, xã Đ1, huyện H, Đặng A T có hành vi cất giấu trái phép 0,227gam ma túy loại methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng số 18/CT-VKSHH ngày 15/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H truy tố đối với Đặng A T là đúng người, đúng tội, lời luận tội có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành, mặc dù biết rõ Nhà nước cấm mọi tổ chức, cá nhân tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép các chất ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã góp phần tiếp tay cho các đối tượng mua bán, vận chuyển ma túy. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[6] Về vật chứng vụ án: quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H đã thu giữ:

- 0,227 gam ma túy loại methamphetamine, sau giám định hoàn lại 0,17 gam, là chất nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen, gắn sim số 0333172926 là điện thoại của bị cáo, bị cáo khai sử dụng điện thoại này liên lạc lấy ma túy của Đ, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 căn cước công dân mang tên Đặng A T là giấy tờ cá nhân của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Trong vụ án này, đối với người đàn ông tên Đ cho T ma túy để sử dụng, quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên không có căn cứ xử lý. Đối với Phạm Văn Đ không biết việc Đặng A T đem ma túy đến nhà mình để sử dụng nên không đề cập xử lý.

[9] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

[10] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Đặng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Đặng A T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt (28/01/2022).

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,17 gam ma túy loại methamphetamine hoàn lại sau giám định trong phong bì số 360/KLGĐ ngày 06/02/2022.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen, gắn sim số 0333172926.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) căn cước công dân số 0220880007977 mang tên Đặng A T.

(Các vật chứng nói trên tình trạng như tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 22/CCTHADS ngày 17/3/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về chế độ thu, miễn, giảm, thu nộp và quản lý án phí, lệ phí Toà án: bị cáo Đặng A T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 331, khoản 1, khoản 3 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: bị cáo Đặng A T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 18/2022/HS-ST

Số hiệu:18/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về