Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 181/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 172/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Minh T, sinh năm 1991 tại tỉnh Vĩnh Long; thường trú: Ấp Th Ngh, xã Th L, huyện B T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Lê Văn Ng, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Xuân L (đã chết); bị cáo có 01 chị ruột, sinh năm 1986; có vợ tên là Lê Ngọc H, sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2022 cho đến nay; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phạm Văn C, sinh năm 1960; thường trú: Thôn N, xã Đ Rl, huyện Đ M, tỉnh Đắc Nông; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1976; thường trú: Thôn Đ L, xã Đ L, huyện Đ M, tỉnh Đắc Nông; vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Thị Hồng Nh, sinh năm 1985; thường trú: Số 6/1 khu phố T B, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn L và anh Võ Văn S; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Minh T là người nghiện ma túy. Ngày 25/02/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave, màu đỏ, biển số 48B1- 13782 từ phòng trọ tại khu phố T A, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương đến khu vực vòng xoay C H thuộc phường H A, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 300.000 đồng ma túy, được đựng trong một gói nilon hàn kín. Sau đó, T mang gói ma túy về phòng trọ tại khu phố T A, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương cất giấu. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26/02/2022, T giấu gói ma túy vào trong một khẩu trang màu trắng xanh để trong quần lót rồi điều khiển xe mô tô biển số 48B1- 13782 đến phòng trọ của Nguyễn Văn L tại khu phố T Qu, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương rủ đi thành phố B H uống cà phê. Sau khi uống cà phê xong, T điều khiển xe mô tô biển số 48B1-13782 chở Lợi về. Trên đường về đến khu vực vòng xoay C Ng thuộc phường H A, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai thì gặp Võ Văn S là bạn của T đang đi bộ một mình nên T rũ S về nhà L chơi. Khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, khi cả ba đi đến trước số nhà 505, đường Quốc lộ 1K, khu phố N H 2, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường B A phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy - kinh tế Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra phát hiện trong quần lót của T có một khẩu trang màu xanh, bên trong khẩu trang có một gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) khẩu trang y tế màu trắng xanh bên trong chứa một gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu đỏ, biển số biển số 48B1-13782 .

Căn cứ Kết luận giám định số: 139/MT-PC09 ngày 04/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,4872 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số: 139/MT-PC09 ngày 04/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Lê Minh T tại khu vực vòng xoay C H thuộc phường H A, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Di A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Bản Cáo trạng số 199/CT-VKS-DA ngày 07 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Minh T với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bì thư đã niêm phong số 139/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2,1744 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) khẩu trang màu trắng xanh, là vật cấm lưu thông và công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu đỏ, biển số 48B1-13782, số khung HV0810413707, số máy PLHHC08062Y413589 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này là của chị Nguyễn Thị Hồng Nh làm chủ sở hữu. Chị Nh cho bị cáo T mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo T sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe trên cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh.

Quá trình tố tụng, bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị cáo Lê Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Về căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của bị cáo và người chứng kiến; biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 25/02/2022, Kết luận giám định số 125/MT-PC09 ngày 22/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 26/02/2022, lực lượng Công an phường B A phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy - kinh tế Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiến hành tuần tra trên địa bàn, khi lực lượng Công an đến trước số nhà NN, đường Quốc lộ 1K, khu phố N H 2, phường B A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Lê Minh T có hành vi tàng trữ trái chất ma túy có khối lượng 2,4872 gam, loại Methamphetamine.

Như vậy, hành vi tàng trữ ma túy có khối lượng 2,4872 gam, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng số 199/CT-VKS-DA ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. [7] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong số 139/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2,1744 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) khẩu trang màu trắng xanh, là vật cấm lưu thông và công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu đỏ, biển số 48B1-13782, số khung HV0810413707, số máy PLHHC08062Y413589 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này là của chị Nguyễn Thị Hồng Nh làm chủ sở hữu. Chị Nh cho bị cáo T mượn xe làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo T sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại xe trên cho chị Nguyễn Thị Hồng Nh, là đúng quy định của pháp luật.

[9] Đối với người thanh niên bán ma túy cho Lê Minh T tại khu vực vòng xoay Cầu Hang thuộc phường Hóa An, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau, là đúng quy định của pháp luật.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo cũng như xử lý vật chứng là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/02/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong số 139/PC09 bên trong có ma túy còn lại sau giám định 2, 1744 gam, loại Methamphetamine và 01 (một) khẩu trang màu trắng xanh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Minh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 181/2022/HS-ST

Số hiệu:181/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về