Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 179/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ - THÀNH PHỐ M

BẢN ÁN 179/2022/HS-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Thành phố M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2022/HSST ngày 20/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2022/QĐXXST-HS ngày 13/05/2022, đối với bị cáo:

Lê Thị Hồng T; sinh năm 1971 tại tỉnh KH; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 56/21 THT, Phường 15, Quận 10, Thành phố M; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ(chết) và bà Nguyễn Thị B; chồng Hà Tấn P; tiền án: Không, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định xử lý hành chính số: 36/QĐ-CSCNBB ngày 18/3/2016, Tòa án nhân dân Quận 10 buộc Lê Thị Hồng T vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội PN để cai nghiện với thời gian 16 tháng, chấp hành xong ngày 24/6/2016.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2021 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Khoảng 18 giờ ngày 11/11/2021, Lê Thị Hồng T điều khiển xe mô tô biển số 59U2-X.37 đến công viên Lê Thị Riêng, Quận 10, Thành phố M gặp người phụ nữ tên L không rõ lai lịch mua 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ma túy tổng hợp để sử dụng. Sau khi mua, T cất giấu số ma túy đã mua vào túi nylon đựng bún tươi treo ở dưới đầu xe mô tô. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T điều khiển xe đến ngã ba đường TN – XLHN thuộc phường AK, thành phố Đ thì bị công an phường AK kiểm tra phát hiện trong túi nylon đựng bún tươi treo ở dưới đầu xe mô tô biển số 59U2-X.37 do T điều khiển, có một gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể không màu. T khai nhận đó là ma túy đá nên Công an phường AK lập biên bản bắt quả tang cùng tang vật. Quá xét nghiệm thể hiện Lê Thị Hồng T dương tính với Methamphetamine.

Kết luận giám định số 6122/KLGĐ-H ngày 16/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố M xác định: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,0817gam, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lê Thị Hồng T khai nhận toàn bộ nội dung phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 6122 có chữ ký của Giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 3,7167gam loại Methamphetamine.

- 01 xe mô tô loại Vario màu đỏ biển số 59U2-X.37, SM: KF41E1706252, SK: MH1KF4117KK703585 do Lê Thị Hồng T đang đứng tên chủ sở hữu.

Tại Bản Cáo trạng số 147/CT-VKSTPTĐ ngày 19/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Lê Thị Hồng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2]. Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo T về tội danh, khung hình phạt, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Hồng T từ 3 năm 6 tháng tù đến 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy đối với lượng ma túy còn lại và tịch sung công quỹ 01 xe mô tô loại Vario màu đỏ biển số 59U2-X.37.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội, của người làm chứng, kết luận giám định... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 11/11/2021, tại khu vực ngã ba đường TN – XLHN, thành phố Đ, Thành phố M, Công an phường AK, thành phố Đ đã bắt quả tang Lê Thị Hồng T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,0817gam , loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như kết luận của Kiểm sát viên. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo, do không biết nhân thân lai lịch, địa chỉ cũng như số điện thoại liên lạc của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Đ không có căn cứ để truy tìm đối tượng này. Trường hợp làm rõ được sẽ xem xét xử lý sau.

[3]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Lượng ma túy tàng trữ có khối lượng 4,0817gam, loại Methamphetamine, thuộc trường hợp:

“1. Người nào tang trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau sau đây thì phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine….. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo:

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hình phạt đối với bị cáo:

Hội đồng xét xử đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, tàng trữ các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, làm tiền đề phát sinh nhiều tội phạm, tệ nạn xấu trong xã hội. Bản thân bị cáo cũng có nhân thân xấu, do đó cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong toàn xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 6122 có chữ ký của Giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 3,7167gam loại Methamphetamine. Xét đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 xe mô tô loại Vario màu đỏ biển số 59U2-X.37, SM: KF41E1706252, SK: MH1KF4117KK703585 do Lê Thị Hồng T đang đứng tên chủ sở hữu, T đã dùng chiếc xe này để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Áp dụng Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tuyên bố bị cáo Lê Thị Hồng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lê Thị Hồng T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021.

3.Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 2015:

- Tịch thu, tiêu hủy đối với: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 6122 có chữ ký của Giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, có khối lượng 3,7167g loại Methamphetamine. .

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước chiếc xe mô tô 01 loại Vario màu đỏ biển số 59U2-X.37, SM: KF41E1706252, SK: MH1KF4117KK703585 do Lê Thị Hồng T đang đứng tên chủ sở T.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 69/QĐ-VKS ngày 07/4/2022 và Biên bản giao nhận vật chứng số 53/22L ngày 14/4/2022).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 179/2022/HS-ST

Số hiệu:179/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về