TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 178/2021/HS-ST NGÀY 22/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 185/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Võ Văn L, sinh năm 1986, tại Đồng Nai, tên gọi khác: Kỳ đà; nơi đăng ký thường trú: Ấp ĐM, xã LP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn N (đã chết) và bà Trần Thị Đ (đã chết), bị cáo là con út trong gia đình bốn anh chị; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 15/01/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 02/HSST); Ngày 18/5/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 25/HSST); Ngày 26/12/2007 bị Tòa án nhân Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 114/HSST); Ngày 18/5/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” (Bản án số 54/HSST), chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 04/01/2019; tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2021 đến ngày 18/9/2021 được hủy bỏ tạm giam thay bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại tổ 11, Ấp ĐM, xã LP, huyện LT. “có mặt”.
- Người làm chứng: Anh Võ Trọng P, sinh năm: 1999. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 15 phút ngày 29/5/2021, Công an xã LP, huyện LT kiểm tra hành chính tại nhà của Võ Văn L, ở Ấp ĐM, xã LP, huyện LT, thì phát hiện L và Vũ Trọng P, sinh năm: 1999 ngụ tại xã PH, huyện NT, tỉnh Đồng Nai đồng thời phát hiện dưới chân bàn trong phòng ngủ của L có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có 01 túi nylon kích thước 02 cm x 03 cm chứa tinh thể màu trắng, một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 ống hút bằng nhựa, 01 nỏ thủy tinh và một chai nhựa có nắp màu đỏ. L khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy do L mua mang về nhà để sử dụng nên Công an xã Long Phước đưa L cùng tang vật về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.
Quá trình điều tra làm rõ: L là người nghiện ma túy từ năm 2019 đến nay, trung bình một tuần L sử dụng 1 - 2 lần. Vào khoảng 8 giờ 00 phút ngày 27/5/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L điện thoại hẹn một người thanh niên (không nhớ số điện thoại, không rõ tên tuổi, địa chỉ) đến ngã ba LP, xã PT, huyện LT để mua ma túy. L điều khiển xe mô tô 60C2- 504.39 đến điểm hẹn gặp người thanh niên mua 01 gói nylon chứa ma túy với giá 1.000.000 đồng, sau đó L đem về nhà sử dụng một ít, số còn lại L giấu trên bàn trong phòng ngủ. Đến 10 giờ 15 phút ngày 29/5/2021, Công an Ấp ĐM, xã LP, huyện LT, kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: 01 gói đã được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1117/PC09-GĐMT, 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng, 01 xe mô tô biển số 60C2- 504.39, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 ống hút bằng nhựa, 01 nỏ thủy tinh và một chai nhựa có nắp màu đỏ, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.
Tại bản kết luận giám định số 1117/KLGĐ-PC09 ngày 04/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3652 gam loại: Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 198/CT-VKSLT ngày 06/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Võ Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Võ Văn L từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù giam.
Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói đã được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1117/PC09-GĐMT và một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 ống hút bằng nhựa, 01 nỏ thủy tinh và một chai thủy tinh có nắp bằng nhựa, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet. Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
Riêng đối với 01 xe mô tô biển số 60C2- 504.39 do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
Tại phiên Tòa bị cáo không phát biểu tranh luận. Bị cáo nói lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép 0,3652 gam, loại:Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bản thân bị cáo có 03 tiền án về tội xâm phạm sở hữu và 01 tiền án tội phạm về ma túy chưa được xóa án tích thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý độc quyền các chất ma túy, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có 04 tiền án nhưng khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không nhận thức sửa chữa để trở thành người công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 1117/PC09-GĐMT ngày 04/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 ống hút bằng nhựa, 01 nỏ thủy tinh và một chai thủy tinh có nắp bằng nhựa, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.
Đối với 01 xe mô tô biển số 60C2- 504.39 do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
[5] Đối với người đàn ông có hành vi bán ma túy cho L không rõ nhân thân lai lịch. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh xử lý sau. Riêng Võ Trọng P không biết L tàng trữ trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành không xử lý là có căn cứ.
[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Võ Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2021 đến ngày 18/9/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 1117/KLGĐ-PC09 ngày 04/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, một bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 ống hút bằng nhựa, 01 nỏ thủy tinh và một chai thủy tinh có nắp bằng nhựa, 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu hồng là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.
(Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Long Thành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/10/2021).
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 178/2021/HS-ST
Số hiệu: | 178/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về