TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 173/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 152/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Lưu Thị T (Tên gọi khác: Trần Thị T), sinh ngày 02 tháng 7 năm 2000 tại Thanh Hóa; HKTT: không; nơi cư trú: XYZ, khu phố HL, phường TG, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con bà Lưu Thị C (không rõ cha); có 01 con sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 02/8/2016, Công an phường Thuận Giao ra xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (chưa chấp hành nộp phạt). Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/01/2021, có mặt tại phiên tòa.
Người chứng kiến:
- Ông Hồ Hoài H, sinh năm 1994. Vắng mặt;
- Ông Đỗ Đức T, sinh năm 1963. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 07/01/2021, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Dương phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy Công an thành phố Thuận An và Công an phường Thuận Giao kiểm tra hành chính nhà trọ số XYZ khu phố HL, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khi lực lượng kiểm tra đến phòng trọ số 37 do Trần Thị T thuê trọ.
Tại thời điểm kiểm tra còn có Hồ Hoài H đang có mặt tại phòng trọ. Quá trình kiểm tra, cơ quan công an phát hiện trên nền nhà của phòng trọ có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất màu trắng và 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng (nghi vấn là ma túy tổng hợp). Lúc này, T khai nhận 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy cùng các chất màu trắng trên là ma túy đá do T mua về cất giấu để sử dụng và Hận không biết T cất giấu số ma túy này. Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ T để xử lý.
Tang vật thu giữ gồm: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất màu trắng; 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất màu trắng.
Bản Kết luận giám định số 11/MT-PC09 ngày 13/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 2,6516 gam (M1); 0,1517 gam (M2), loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 170/CT-VKSTA ngày 10/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố Lưu Thị T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị căn cứ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự xử phạt Lưu Thị T mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lưu Thị T khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo có số ma túy nêu trên là do mua của 01 người phụ nữ tên Heo khoảng 20 tuổi, da đen, nói giọng miền Tây tại khu vực ngã ba Việt Sing, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An với giá 900.000 đồng vào ngày 06/01/2021 sau đó đem về phòng trọ cất giấu để sử dụng. Riêng 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy do T được một người bạn quen ngoài xã hội cho để sử dụng. Sau khi mua, bị cáo để trong phòng trọ cho đến khi bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ. Ông Hồ Hoài H là bạn của bị cáo, vừa đến phòng chơi và không biết gì về số ma túy này. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là trái pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
Về tuổi của bị cáo: Theo Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 427/C09B ngày 11/01/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tại thời điểm giám định, độ tuổi của bị cáo là 17 năm 06 tháng đến 18 năm. Quá trình điều tra, mẹ bị cáo là bà Lưu Thị C khẳng định bị cáo sinh ngày 02/7/2000 tại nhà riêng ở thôn Ngọ Trung, xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Tại Công văn số 01/CV-TYT ngày 30/3/2021 của Trạm Y tế xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xác định bà Lưu Thị C sinh con gái vào ngày 02/4/2000 (Theo đăng ký tiêm chủng của gia đình). Theo Bản sao giấy khai sinh số 82 ngày 28/01/2021 do UBND xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa trích sao từ sổ đăng ký khai sinh thì Lưu Thị T sinh ngày 02/7/2000 – có mẹ là Lưu Thị C sinh ngày 10/02/1970; phần họ tên cha bỏ trống; người đi khai sinh là bà Lưu Thị Sâm (Bà ngoại của Lưu Thị T) đăng ký khai sinh vào ngày 16/9/2005. Như vậy, theo xác định của bà Lưu Thị C và Trạm y tế xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa có căn cứ xác định bị cáo Lưu Thị T được sinh vào năm 2000. Do đó, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đã đủ 18 tuổi.
[2] Về hành vi của bị cáo: Qua tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã cất giữ tại nơi ở số ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 2,8033 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị kiểm tra, thu giữ.
[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết được tác hại của ma túy và việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có ma túy sử dụng.
Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của bị cáo Lưu Thị T đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không gây oan sai cho bị cáo.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm an ninh, trật tự tại địa phương, gây lên sự nghiện ngập, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội và nhiều căn bệnh hiểm nghèo.
Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án nhân dân thành phố Thuận An đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và răn đe các đối tượng khác phòng ngừa chung, nhất là trong giai đoạn hiện nay tình hình tội phạm về ma túy diễn ra nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt như nêu trên là có căn cứ, phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo.
Đối với đối tượng đã bán số ma túy nêu trên cho Lưu Thị T do chưa rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.
[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy và số ma túy còn lại sau giám định loại Methamphetamine có trọng lượng 2,6232 gam đựng trong bì thư được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 11/MT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV:
1. Tuyên bố bị cáo Lưu Thị T (Tên gọi khác: Trần Thị T) phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Lưu Thị T 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2021.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bộ dung cụ sử dụng ma túy và số ma túy loại K Methamphetamine còn lại sau giám định có trọng lượng 2,8033 gam đựng trong bì thư được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 11/MT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
(Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An).
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 173/2021/HS-ST
Số hiệu: | 173/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về