Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/TLST- HS ngày 21 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh ngày 12/9/1986 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C1 và bà Tô Thị D (đã chết); bị cáo sống với chị Phạm Thị L1 như vợ chồng từ năm 2011 và có 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 04/5/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Cát Hải áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, Q bỏ trốn và đến năm 2019 mới chấp hành quyết định (chưa được xóa); bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 12/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

Lê Tuấn A, sinh ngày 14/10/1987 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L2 và bà Phạm Thị H; có vợ là Lê Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 12/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Đỗ Văn C2, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ 30 phút ngày 09/6/2021, tại trục đường Tân Vũ thuộc thôn N, xã N, huyện Cát Hải, Công an thị trấn C phối hợp với Đội 2 Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy số 1-Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển phát hiện bắt quả tang Phạm Văn Q và Lê Tuấn A có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ bên trong mũ bảo hiểm đang đội của Q 01 túi nilon màu trắng, kích thước 02cm x 1,5cm bên trong chứa chất bột dạng cục, Q và Tuấn A khai là Heroine. Công an thị trấn C đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để tiến hành giám định và tạm giữ 01 xe mô tô Sirius màu trắng BKS: 15E1-01270.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an huyện Cát Hải:

Phạm Văn Q khai nhận: Sáng ngày 09/6/2021, Lê Tuấn A từ xã N đến nhà Q ở thị trấn C chơi, do mới đi cai nghiện về không biết chỗ mua ma túy, nên Q rủ Tuấn A đi Hải Phòng mua ma túy cùng sử dụng. Lê Tuấn A đồng ý, điều khiển xe mô tô Sirius màu trắng BKS: 15E1- 01270 chở Q vào nội thành Hải Phòng, Q đưa cho Tuấn A 200.000đ để mua ma túy. Tuấn A cầm tiền đi vào khu vực đường tàu Lương Khánh Thiện một lát quay lại đưa cho Q 01 túi ma túy để cất giấu. Sau đó cả hai đến nghĩa trang phường Đông Hải, quận Hải An, lấy một phần ma túy ra cùng sử dụng, số ma túy còn lại Q cất giấu trên mũ bảo hiểm đội trên đầu. Tuấn A điều khiển xe chở Q về đến chân cầu Tân Vũ, xã N, huyện Cát Hải thì bị Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ số vật chứng nêu trên.

Lê Tuấn A khai nhận: Sáng ngày 09/6/2021, Tuấn A điều khiển xe mô tô BKS 15E1 - 01270 xuống nhà Q ở thị trấn C chơi, Q rủ và nhờ Tuấn A chở đi Hải Phòng mua ma túy sử dụng. Tuấn A đồng ý chở Q đến khu vực Cầu Tre, quận Ngô Quyền, Q đưa cho Tuấn A 200.000đ. Đến khu vực đường Lương Khánh Thiện, Hải Phòng, Q đứng đợi, Tuấn Ađi vào đường tàu mua của một người đàn ông không quen biết 200.000đ được 01 túi ma túy, loại Heroine cầm ra đưa cho Q. Tuấn Achở Q đến khu vực nghĩa trang phường Đông Hải, quận Hải An cả hai lấy một phần ma túy ra sử dụng, số còn lại Q cất giấu trên mũ bảo hiểm đội trên đầu, khi về đến trục đường Tân Vũ, thôn N, xã N, huyện Cát Hải thì bị Công an phát hiện bắt quả thu giữ số vật chứng nêu trên.

Bản Kết luận giám định số 375/KLGĐ-MT ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,22 gam, là loại Heroine.

Bản Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 20/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải truy tố bị cáo Phạm Văn Q, Lê Tuấn A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

lun:

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Phạm Văn Q có hành vi cất giữ trái phép 0,22 gam ma túy, là loại Heroine, số ma túy nêu trên do Lê Tuấn A giúp sức mua hộ cho Phạm Văn Q mục đích để sử dụng. . Do đó, Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; các bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về nhân thân: bị cáo Phạm Văn Q có 01 tiền sự chưa được xóa, thể hiện nhân thân xấu, do vậy cần phải xem xét khi lượng hình đối với bị cáo; riêng bị cáo Lê Tuấn A chưa có tiền án, tiền sự. Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện hành vi nên các bị cáo là đồng phạm, trước đó các bị cáo không có bàn bạc, phân công, phân nhiệm cụ thể, nên đây chỉ là đồng phạm giản đơn; riêng bị cáo Q, bản thân có 01 tiền sự chưa được xóa, trong vụ án này bị cáo chủ động rủ bị cáo Lê Tuấn A đi mua ma túy nên bị cáo Q đứng vai trò đầu vụ và sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo Lê Tuấn A .

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Q từ 24 đến 30 tháng tù và Lê Tuấn A từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, vì các bị cáo không có tài sản riêng, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn.

- Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định.

- Về các vấn đề khác:

Đi với xe mô tô Sirius BKS 15E1 -01270 qua xác minh là tài sản chung của vợ chồng Lê Tuấn A và Lê Thị T, do chị Thủy không biết, chồng sử dụng phương tiện vào việc phạm tội, xét thấy chiếc xe không liên quan đến vụ án khác, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải đã trả lại cho chị Lê Thị T.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho Lê Tuấn A do không xác minh được lai lịch, địa chỉ, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát. Các bị cáo biết hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn Q, Lê Tuấn A đều khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định, vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã làm rõ: các bị cáo Phạm Văn Q, Lê Tuấn A đều là người nghiện ma túy, nên ngày 09/6/2021, tại khu vực đường Tân Vũ, thôn N, xã N, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn Q có hành vi cất giữ trái phép 0,22 gam ma túy, là loại Heroine, số ma túy nêu trên do Lê Tuấn A giúp sức mua hộ cho Phạm Văn Q, mục đích để sử dụng cho bản thân. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Heroine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Như vậy, hành vi cất giữ trái phép 0,22 gam ma túy nêu trên của các bị cáo Phạm Văn Q, Lê Tuấn A có đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[3] Các bị cáo Phạm Văn Q, Lê Tuấn A đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà mình thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo, đồng thời có tác dụng giáo dục chung, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện hành vi nên các bị cáo là đồng phạm, trước đó các bị cáo không có bàn bạc, phân công, phân nhiệm cụ thể, nên đây chỉ là đồng phạm giản đơn; riêng bị cáo Q, bản thân có 01 tiền sự chưa được xóa, trong vụ án này bị cáo chủ động rủ bị cáo Lê Tuấn A đi mua ma túy nên bị cáo Q đứng vai trò đầu vụ và sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo Lê Tuấn A.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định

"5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản" do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có tài sản riêng. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng vụ án:

[8] 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định thu giữ được của Phạm Văn Q là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với xe mô tô Sirius BKS 15E1 -01270 qua xác minh là tài sản chung của vợ chồng Lê Tuấn A và Lê Thị T, do chị T không biết, chồng sử dụng phương tiện vào việc phạm tội, xét thấy chiếc xe không liên quan đến vụ án khác, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải đã trả lại cho chị Lê Thị T là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lê Tuấn A do không xác minh được lai lịch, địa chỉ, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là có cơ sở.

[11] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự.

[12] Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 27 (Hai mươi bảy) tháng tù và Lê Tuấn A 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định thu giữ được của Phạm Văn Q. Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Cát Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn Q và Lê Tuấn A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2021/HS-ST

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về