Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 162/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 162/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 161/2021/HSST, ngày 06 tháng 9 năm 2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2021/QĐXXST- HS, ngày 10 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo.

Họ và tên: Nguyễn Đ Q (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 03/6/1978; Nơi sinh: Tỉnh Ninh Bình; Nơi ĐKNKTT: Bản H, phường H L, thành phố ĐBP, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Bị cáo là Đảng viên đến ngày 16/7/2021, bị đình chỉ sinh hoạt Đảng; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn M – sinh năm 1945 và bà Lê Thị N– sinh năm 1947; Vợ: Nguyễn Thị L, con 01 con sinh năm 2009; Tiền án, Tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 09/6/2021, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 40 phút ngày 09/6/2021, tổ công tác Công an phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ phát hiện Nguyễn Đ Q đang ngồi trên xe mô tô biển kiểm soát 27X1-008.92 dựng trên sân Bệnh viện tỉnh Điện Biên có biểu hiện phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, Q tự giác lấy trong túi vải có dây rút đang cầm trên tay phải ra giao nộp 01 gói nhỏ bên trong có 03 viên nén màu hồng được gói bằng 06 lớp nilon màu hồng. Q lấy tiếp trong túi áo khoác bên trái đang mặc 02 gói nhỏ được gói bằng 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 02 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh giấy màu trắng xanh nộp cho tổ công tác. Q khai toàn bộ số ma túy trên Q mua vào khoảng 12 giờ trưa cùng ngày, của một người đàn ông không quen biết ở đường khu vực xã Nà Nhạn, thành phố Điện Biên Phủ với giá 250.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được số ma túy đó Q mang theo số ma túy đó đi vào Bệnh viện tỉnh Điện Biên để thăm bạn ốm thì bị phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 0,32 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine, 08 mảnh nilon màu hồng, 03 mảnh giấy, 01 túi vải có dây rút đã rách có dây rút ở miệng túi và 01 xe mô tô biển kiểm soát 27X1-008.92 Q đã dùng vào việc phạm tội.

Tại bản kết luận giám định số 647/GĐ-PC09 ngày 17/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 03 viên nén màu hồng gửi đi giám định là ma túy loại Methamphetamine, nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 có khối lượng là 0,32 gam; Các cục chất bột mau trắng gửi giám định chất ma túy, loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 có khối lượng 0,09 gam. Vật chứng còn lại sau khi giám định là 0,29 gam Methamphetamine và 0,04 gam Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 109/CT-VKSTPĐBP ngày 06/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Nguyễn Đ Q về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ Q từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tch thu tiêu hủy: 0,32 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine, 08 mảnh nilon màu hồng, 03 mảnh giấy, 01 túi vải có dây rút đã rách. 01 xe mô tô biển kiểm soát 27X1-008.92 Q mượn của anh Nguyễn Thế L, anh L không biết Q sử dụng vào việc phạm tội và 01 chiếc điện thoại itel, 01 chiếc điện thoại Sam sung của Q không liên quan đến việc phạm tôi, Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu và người được Q ủy quyền nhận hộ.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 17 giờ 40 phút, ngày 09/6/2021, tại sân Bệnh viện tỉnh Điện Biên thuộc tổ dân phố 10, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, phát hiện Nguyễn Đ Q cất giấu 0,32 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc các một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

...i) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.” Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, quá trình công tác bị cáo có nhiều thành tích được Nhà nước tặng hai huy chương chiến sỹ vẻ vang và mẹ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng hai nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Nguyễn Đ Q sinh ra và lớn lên tại xã Khánh Hồng, huyện Yên Khanh, tỉnh Ninh Bình được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 9 sau đó đến năm 1992 chuyển lên phường Him Lam, thành phố Điện Biên Phủ sống cùng anh chị và được học hết lớp 12/12. Năm 2002 được tuyển vào nghĩa vụ quân sự Công an tỉnh Điện Biên. Năm 2005 chuyển biên chế chính thức và công tác tại Tiểu đoàn cảnh sát cơ động – Công an tỉnh Điện Biên. Tháng 7/2008 chuyển công tác đến Công an huyện Điện Biên. Đến năm 2009 xây dựng gia đình với chị Nguyễn Thị L. Năm 2016 bắt đầu sử dụng ma túy. Tháng 6/2020 viết đơn xin ra khỏi lực lượng Công an.

Ngày 09/6/2021 bị Công an thành phố Điện Biên Phủ bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị và bị cáo đi chấp hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[5]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 0,32 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine, 08 mảnh nilon, 03 mảnh giấy, 01 túi vải có dây rút đã rách.

Đi với 01 xe mô tô biển kiểm soát 27X1-008.92 Q mượn của anh Nguyễn Thế L, anh L không biết Q sử dụng vào việc phạm tội và 01 chiếc điện thoại itel, 01 chiếc điện thoại Sam sung thu giữ của Q không liên quan đến việc phạm tôi, Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu và người được Q ủy quyền nhận hộ. Do vậy HĐXX chấp nhận.

[6]. Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bị cáo khai đã bán ma túy, quá trình điều tra không xác M làm rõ được, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[7]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thành phố Điện Biên Phủ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[8]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đ Q phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ Q 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (09/6/2021).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 0,32 gam Methamphetamine và 0,09 gam Heroine, 08 mảnh nilon màu hồng, 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 mảnh giấy màu trắng xanh, 01 túi vải có dây rút đã rách có dây rút ở miệng túi (đã niêm phong).

(Vt chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/9/2021);

- Chấp nhận biên bản trao trả tài sản ngày 31/8/2021 3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/9/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 162/2021/HS-ST

Số hiệu:162/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về