Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2021/TLST-HS ngày 23/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HS ngày 16/02/2022; Quyết định Hoãn phiên tòa số: 06/2022/HSST- QĐ ngày 28/02/2022, đối với bị cáo:

Cao X T , sinh năm: 1986. Nơi cư trú: Khu K, thị trấn Hồi X, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Thái; Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông: Cao Văn V , sinh năm: 1962. Con bà: Phạm Thị H , sinh năm: 1962. Vợ: Hà Thi , sinh năm: 1989 (Đã ly hôn). Con: lớn nhất sinh năm 2006; Con nhỏ nhất sinh năm 2014 (Con nuôi).

Hiện bố, mẹ cùng các con của bị cáo đang sinh sống tại khu K, thị trấn Hồi X, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Vợ của bị cáo đang sinh sống tại huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa; Tiền sự: Không. Tiền án: Ngày 18/4/2019 bị tòa án nhân dân huyện Quan Hóa tuyên xử 27 (hai bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 25/12/2020 (chưa được xóa án tích).

Bị tạm giữ ngày 30/9/2021, chuyển tạm giam ngày 06/10/2021 tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Lát, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 27/9/2021 bị cáo đi xe máy chở theo Hà Thị B , sinh năm 1981, trú ở khu 3, thị trấn Mường Lát từ Quan Hóa lên Mường Lát, đến khu vực bản Lốc Há, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát bảo B đứng chờ, bị cáo quay lại nhà người đàn ông nghe nói tên D , mua hai loại ma túy qua khe cửa nhà với giá tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng), bị cáo nhận ma túy qua khe cửa, không kiểm đếm lại và không thấy mặt nhau. Lúc mua bán ma túy không ai nhìn thấy, bị cáo không nói cho B biết, mua xong bị cáo cất số ma túy gồm cả Hồng phiến và Heroine vào khẩu trang rồi đeo khẩu trang lên mồm và đi đến chỗ B , tiếp tục chở B về nhà ở khu 3, thị trấn Mường Lát. Về đến nơi bị cáo cất ma túy vaò lọ nhựa và giấu ở cạnh bể nước nhà B . Khoảng 11 giờ, ngày 30/9/2021, Công an huyện Mường Lát phối hợp với Công an thị trấn Mường Lát và Bộ đội biên phòng cửa khẩu Tén Tằn kiểm tra nhà ở của B , khi nhận thấy trong nhà có biểu hiện tụ tập sử dụng ma túy. Khi các lực lượng vừa vào nhà thì có B và bị cáo ngồi trên giường. Bị cáo đã ném một lọ nhựa màu xanh, có nắp vặn xuống ngay phòng ở trong nhà, tổ công tác đã phát hiện và bắt bị cáo nhặt lên để kiểm tra, qua kiểm tra bên trong lọ có hai túi nilon màu hồng, túi thứ nhất đựng 20 (hai mươi) viên nén, hình trụ tròn, trong đó 19 (mười chín) viên màu hồng, 01 (một) viên màu xanh; túi nilon màu hồng thứ hai chứa các cục bột khô, dạng nén, màu trắng và một cục bột khô dạng nén, màu trắng ngà không bọc nilon, tất cả để chung trong lọ nhựa. Trường khai đó đều là ma túy. Tiếp tục kiểm tra tại giường ngủ của B tổ công tác phát hiện một gói nilon màu trắng, một gói nilon màu hồng, một gói nilon màu xanh bên trong đều chứa các cục bột khô, màu trắng ngà B và bị cáo khai đây là thuốc cai nghiện và một gói giấy bạc bên trong có một viên nén màu hồng, hình trụ tròn, B khai là ma túy tổng hợp được bị cáo cho để sử dụng. Còn số các cục bột khô, màu trắng ngà mà bị cáo cho B , là thuốc cai nghiện, mua vào ngày 26/9/2021 tại khu vực Co Lương, thuộc huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình với một người đàn ông không biết tên, địa chỉ với giá tiền 1.000.000đ (một triệu đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 3058/PC09, ngày 04 tháng 10 năm 2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

“19 (một chín) viên màu hồng, hình trụ tròn, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu chữ “WY” trong phong bì niêm phong mặt trước ghi “ Vật chứng thu giữ của Cao X Trường” là ma túy, có tổng khối lượng 1,892g (một phẩy tám chín hai gam) loại: Methamphetamine.

01 (một) viên nén màu xanh, hình trụ tròn trên bề mặt ký hiệu chữ A trong phong bì niêm phong là ma túy, tổng khối lượng 0,101g (không phẩy một không một gam) loại: Metham phetamine.

Các cục bột dạng nén, màu trắng ngà trong phong bì mặt trước có ghi “Vật chứng thu giữ của Cao X Trường” là ma túy, có tổng khối lượng 1,510g (một phẩy năm một không gam) loại: Heroine.

Các cục bột khô màu trắng trong phong bì mặt trước ghi “ Vật chứng thu giữ của Hà Thị Bề” có tổng khối lượng 0,845g (không phẩy tám bốn năm gam). Qua giám định không tìm thấy chất ma túy.

Chất bột màu trắng trong phong bì mặt trước ghi “Vật chứng thu giữ của Hà Thị Bề” có tổng khối lượng 0,179g (không phẩy một bảy chín gam). Qua giám định không tìm thấy chất ma túy.

01 (một) viên nén màu hồng, hình trụ tròn trên bề mặt ký hiệu WY trong phong bì, mặt trước ghi “Vật chứng thu giữ của Hà Thị Bề” là ma túy, có tổng khối lượng 0,098g (không phẩy không chín tám gam) loại: Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số: 09/CT-VKS-ML ngày 22/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, không ai xúi giục hay ép buộc nhận tội thay người khác. Bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, không khai báo thêm tình tiết mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS;

Về hình phạt: Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập thấp nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt nam cấm lưu hành, tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo tàng trữ 1,993g (một phẩy chín chín gam) + 0,098g (không phẩy không chín tám gam) viên hồng phiến mà bị cáo cho Bề là 2,091g Methamphetamine và 1,510g (một phẩy năm một không gam) Heroine. Như vậy, tổng khối lượng của cả 02 chất ma túy là 3,601g (ba phẩy sáu không một gam) đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

[3]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS (tái phạm).

Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho các bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ. đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt thu nhập không ổn định, không có tính khả thi. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành, cần tịch thu, tiêu hủy. Tang vật của vụ án hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

[6]. Các nhận định khác:

Đối với Hà Thị B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lương ma túy 0,098g chưa đủ để xử lý hình sự theo quy định, Bề cũng không có tiền án, tiền sự nên Cơ quan CSĐT đã xử phạt hành chính theo quy định.

Đối với người tên Dế đã bán ma túy cho bị cáo, việc mua bán chỉ đưa qua khe cửa, không ai nhìn thấy mặt ai, không ai chứng kiến và CQĐT cũng đã lấy lời khai một người tên Gia Văn D , sinh năm 1992 ở bản Lốc Há, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát nhưng người này khẳng định không được bán ma túy cho bị cáo ngày 27/9/2021, nên không có căn cứ để xử lý đối với người này.

[7]. Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Căn cứ: Điều 260; khoản 2 Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331, Điều 333 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ: Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về tội danh:

Tuyên: Bị cáo Cao X T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về hình phạt:

Hình phạt chính, xử phạt bị cáo: Trường 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (30/9/2021).

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về tang vật:

Tịch thu tiêu hủy: Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, mặt trước ghi vụ Cao X T , mặt sau được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ , Trần Thị Thúy H , Lương X M và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số: 08/QĐ-VKS-ML, ngày 22/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số: 19/NK/2022 ngày 22/12/2021 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo được miễn án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị:

Án xử công khai, có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về