TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 161/2023/HS-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C và điểm cầu thành phần: Phòng H4, Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 150/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 242/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Mạnh H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 25/8/1985 tại thành phố C, tỉnh C;
Nơi cư trú: Tổ A, phường T, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12 phổ thông; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn S (Đã chết) và bà: Hồ Lan P (Sinh năm 1954); Vợ: Đinh Thị H1 (Sinh năm: 1991 - Đã ly hôn); Con: Có 01 con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/8/2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C đến nay; Có mặt.
2. Nguyễn Văn G; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 01/02/1990 tại huyện L, tỉnh B;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh B; Chỗ ở hiện nay: Tổ B, phường S, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Quang H2; (Sinh năm 1954) và bà: Giáp Thị Đ (Sinh năm: 1956); Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 20/02/2014 bị Công an huyện L, tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Quyết định số 40/QĐ-XPHC (bị cáo chưa thi hành xong);
Nhân thân:
+ Ngày 31/5/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh B xử phạt 02 năm tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy;
+ Ngày 03/11/2021 bị Công an phường H, thành phố C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/8/2023 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh C đến nay; Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hồ Lan P - sinh năm 1954; Địa chỉ: Tổ A, phường T, thành phố C, tỉnh C; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 05 phút ngày 16/8/2023 tại khu vực tổ A, phường T, thành phố C, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C bắt quả tang La Văn Q (sinh ngày: 11/9/1990; Trú tại: tổ A, phường S, thành phố C),
Nguyễn Mạnh H (sinh ngày: 25/8/1985; Trú tại: tổ A, phường T, thành phố C) và Nguyễn Văn G (sinh ngày: 01/02/1990; Trú tại: tổ B, phường S, thành phố C) có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ:
+ 01 (một) gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột có khối lượng 0,14g (không phẩy mười bốn gam) thu giữ tại túi quần đằng trước bên phải H đang mặc (Q, H và G đều khai nhận là Heroine);
+ Tiền Việt Nam: 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), thu giữ trong túi quần đằng sau bên phải Q đang mặc;
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt trước và sau có chữ NOKIA có số seri: 356107167201626, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của Q;
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen viền bạc, mặt trước có chữ SanCup, có số IMEI: 863341026355466, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của H;
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ SAMSUNG, có số IMEI: 358465096053180/01, điện thoại cũ đã qua sử dụng, thu giữ của G;
+ 01 (một) chiếc xe đạp điện màu hồng.
Ngày 17/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh C ra Quyết định trưng cầu giám định số 290 đối với vật chứng vụ án. Tại bản kết luận giám định số 437 ngày 25/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại Heroine (H)”.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng 10 giờ 16/8/2023, Nguyễn Mạnh H gọi điện thoại cho Nguyễn Văn G rủ đi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. G đồng ý và hẹn H đến khu vực đầu cầu S, thành phố C để đón G. Khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày, H điều khiển xe đạp điện đến đón G và đưa cho G số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để mua ma túy. G nhận tiền và gọi điện thoại cho Lục Văn Q1 hỏi mua ma túy với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Q1 đồng ý và hẹn G đến cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh C để trao đổi mua bán. Sau đó, Q1 đi bộ đến khu vực cổng Trường T thuộc tổ A, phường T, thành phố C tìm mua ma túy. Tại đây, Q1 gặp một người đàn ông không quen biết dáng giống người nghiện nên hỏi mua Heroine. Người này đồng ý. Q1 đưa cho người đàn ông đó số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Người này nhận tiền rồi đưa cho Q1 01 (một) một gói Heroine gói bằng giấy bạc màu vàng. Sau khi mua được H3, Q1 đi đến khu vực bờ kè phía sau Bệnh viện đa khoa tỉnh C bớt một phần Heroine ra để sử dụng cho bản thân rồi mang gói Heroine còn lại, đi bộ đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh C thì gặp H và G. Tại đây, G đưa cho Quân số tiền 200.000 (hai trăm nghìn đồng). Q1 nhận tiền và đưa cho H 01 (một) gói Heroine gói bằng giấy bạc màu vàng. Khi Q1, H và G vừa trao đổi mua bán ma túy xong thì bị Cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.
Ngày 22/8/2023, bị can La Văn Q đã chết tại khoa cấp cứu bệnh viện đa khoa tỉnh C do bệnh lý viêm suy gan cấp. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C ra quyết định đình chỉ điều tra bị can số 02 đối với La Văn Q.
Hành vi của Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh C lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại bản Cáo trạng số: 154/CT-VKSTP ngày 13/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo nhất trí với khối lượng heroin bị thu giữ và khai: Do bản thân nghiện ma túy nên ngày 16/8/2023, hai bị cáo cùng đi mua ma tuý với mục đích để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Đối với tài sản bị tạm giữ là chiếc xe đạp điện màu hồng, bị cáo H khai: Chiếc xe này là của mẹ đẻ bị cáo - bà Hồ Lan P, khi mượn xe, bị cáo chỉ nói mượn đi chợ mua đồ nên bà P không biết việc bị cáo dùng xe để đi mua ma túy. Mong Hội đồng xét xử trả lại xe cho mẹ bị cáo.
Lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án - bà Hồ Lan p thể hiện: Bà là mẹ của bị cáo Nguyễn Mạnh H. Chiếc xe đạp điện màu hồng bị tạm giừ trong vụ án là của bà. Năm 2017, bà đã sử dụng tiền cá nhân tích góp (2.000.000đ) để mua với ông Hoàng Sĩ N. Khi cho mượn, bà không biết việc H sử dụng xe để đi mua ma túy. Bà mong Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe trên cho bà và cho bị cáo H được hưởng mức hình phạt thấp nhất.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G từ 13 tháng đến 16 tháng tù.
Các bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại mẫu sau giám định; tịch thu 200.000đ sung ngân sách nhà nước; tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 03 điện thoại di động của các bị cáo do đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; trả lại xe đạp điện màu hồng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Lan P.
Tại phần tranh luận, cả hai bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C.
Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đều tỏ thái độ ăn năn và mong Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh C; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo đều phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của La Văn Q, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 16/8/2023; kết luận giám định; vật chứng; cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định:
Hồi 11 giờ 05 phút ngày 16/8/2023 tại khu vực tổ A, phường T, thành phố C, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố c bắt quả tang Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn G có hành vi tàng trữ trái phép 0,14g (không phẩy mười bốn gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.
Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Các bị cáo đều là người nghiện ma túy. Bị cáo Nguyễn Mạnh H chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Văn G là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án, bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần đều liên quan đến ma túy, trong đó có một tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa thi hành xong).
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Văn G có bố đẻ là người có công với cách mạng (được Nhà nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến Hạng Ba) nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
[4.1] Về hình phạt chính:
Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, không thể tự cải tạo, cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ đế cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo.
Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn: Rủ nhau mua ma túy về sử dụng chung, không có sự bàn bạc, phân công cụ thể nên trách nhiệm hình sự mỗi bị cáo phải chịu là tương đương nhau. Tuy nhiên, khi xem xét lượng hình Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo G có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án, bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính về hành vi liên quan tới ma túy, nên đối với bị cáo G cần đưa ra mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo H.
[4.2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- 01 (một) phong bì được niêm phong theo quy định, bên trong có chứa ma tuý là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.
- 02 điện thoại di động của các bị cáo Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn G là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước;
- Đối với 01 chiếc xe đạp điện màu hồng: Quá trình điều tra và xét xử xác định được chiếc xe này là của bà Hồ Lan P. Bà p không biết việc bị cáo sử dụng xe để đi mua ma túy. Tại phiên tòa, bà 4 có nguyện vọng được xin lại chiếc xe. Theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe trên cho bà P.
- Đối với tài sản thu giữ của La Văn Q. Quá trình điều tra và tại phiên tòa làm rõ được:
+ Số tiền 200.000đ thu giữ trong túi quần La Văn Q là tiền có được từ việc mua bán ma túy trái phép nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước (bút lục số 56);
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen thu giữ của Q là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước (bút lục số 63).
[6] Về án phí:
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về những vấn đề khác:
[7.1] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lục Văn Q1, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
[7.2] Xét thấy đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố C về tội danh, hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G nên cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 13 (mười ba) tháng tù.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn G 15 (mười lăm) tháng tù.
Thời gian chấp hành án đối với các bị cáo được tính kể từ ngày 16/8/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử:
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi: “Số 437/KL-KTHS. Hoàn mẫu vụ La Văn Q cùng đồng bọn, có hành vi Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy” (Kèm theo Kết luận giám định số 437/KL - KTHS, ngày 25/8/2023 của Phòng K Công an tỉnh C);
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi: “Tiền Việt Nam: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) (Kèm theo Kết luận giám định số 484/KL - KTHS, ngày 21/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh C);
- Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt trước và mặt sau có chữ NOKIA, có số Seri: 356107167201626, điện thoại cũ đã qua sử dụng;
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen viền bạc, mặt trước có chữ SanCup, có số IMEI (theo Quyết định chuyển vật chứng): 863341026355466, điện thoại cũ đã qua sử dụng;
+ 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ SAMSUNG, có số IMEI (theo Quyết định chuyển vật chứng): 358465096053180/01, điện thoại cũ đã qua sử dụng;
- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Hồ Lan P (sinh năm: 1954; Địa chỉ: Tổ A, phường T, thành phố C, tỉnh C): 01 (một) xe đạp điện màu hồng. Kiểm tra thực tế khi nhận xe cũ đà qua sử dụng, chân chống, vành xe đã bị han gỉ, phần đuôi xe bị gẫy một góc bên trái.
Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh C theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 25 ngày 01/12/2023.
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án buộc mỗi bị cáo Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Văn G phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 161/2023/HS-ST
Số hiệu: | 161/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về