TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 160/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/2023/HSST ngày 16/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2023/QĐXXST-HS ngày 16/11/2023 đối với bị cáo:
TRẦN HOÀI N - Sinh năm: 1998; Giới tính: Nam; Nơi sinh: T. Nơi cư trú: khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B, tỉnh T. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Không. Cha: Trần Thanh Th, sinh năm 1972. Mẹ: Ngô Thị H, sinh năm 1974. Hiện ở khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B, tỉnh T. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con nhỏ nhất. Vợ: Lê Thị Thu H , sinh năm 2000. Hiện ở khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B, tỉnh T. Con: có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2020, con nhỏ nhất sinh năm 2022. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện B từ ngày 29/7/2023. Bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Thu H – sinh năm 2000 (vắng mặt) Địa ch: Khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ, ngày 22/5/2023, TRẦN HOÀI N, sinh năm 1998, ở khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B đang ở nhà thì có nhu cầu sử dụng ma túy đá, nên N đã liên hệ với một người thanh niên qua số điện thoại (N không nhớ vì khi liên hệ xong thì N đã xóa số) để hỏi mua 300.000 đồng ma túy và hẹn chỗ giao ma túy là từ ngã ba cây đào xã Hàm Đức đi về hướng xã Hồng S. Sau đó, N điều khiển xe mô tô hiệu Vision màu xám-xanh, biển số 86B3-xxxxx (xe này do bà Lê Thị Thu H làm chủ sở hữu, N lấy xe đi mua ma túy bà H không biết) đi từ nhà N đến khu vực thuộc xã Hồng S để lấy ma túy đá. Người Thanh niên bán ma túy, bỏ tép ma túy đá vào gói thuốc lá và nói với N để ở góc trụ điện thứ tư. Khi N đến nơi thấy có 01 gói thuốc lá hiệu basto, bên trong có 01 tép nhựa đựng ma túy, N lấy ma túy ra và bỏ lại trong gói thuốc lá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Có ma túy, N điều khiển xe về lại nhà, trên đường về, lúc này khoảng 22 giờ 20 phút cùng ngày, N gặp tổ công tác Công an huyện B phối hợp với Công an thị trấn Ma Lâm tiến hành tuần tra trên tuyến đường bê tông Phạm Ngọc Thạch thuộc khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B phát hiện TRẦN HOÀI N, đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong cốp xe của N có một gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước khoảng (03 x 1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. N khai nhận chất tinh thể màu trắng trên là ma túy đá của N mua về để sử dụng.
Kết luận giám định số 608/KL-KTHS ngày 30/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T kết luận: Đối tượng giám định: 01 (một) gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước khoảng (03x1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì màu trắng, bên ngoài có chữ ký của những người sau: Huỳnh Ngọc N, Nguyễn Bảo Tr, Hồ Mai Khải Th, Trương Minh V, TRẦN HOÀI N và hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn Ma Lâm, huyện B, tỉnh T (ký hiệu M). Kết luận giám định: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2712 gam; là Methamphetamine.
Hoàn lại đối tượng giám định: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 0,2402 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 608, có chữ ký của giám định viên Đoàn Th Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T.
Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý: 01 điện thoại Nokia 1280, màu đen; 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 0,2402 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 608, có chữ ký của giám định viên Đoàn Th Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T là vật chứng vụ án. Viện kiểm sát N dân huyện B đã ra quyết định chuyển số vật chứng trên từ Cơ quan CSĐT – Công an huyện B đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B bảo quản chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 150/CT-VKSHTB ngày 13/10/2023 của Viện kiểm sát N dân huyện B truy tố bị cáo TRẦN HOÀI N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo TRẦN HOÀI N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt TRẦN HOÀI N từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 0,2402 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 608, có chữ ký của giám định viên Đoàn Th Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia 1280, màu đen.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện B; Viện Kiểm sát N dân huyện B và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Sao khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát N dân huyện B đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện B, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 22/5/2023, Tổ công tác Công an thị trấn Ma Lâm phối hợp với Công an huyện B, tiến hành tuần tra trên tuyến đường Phạm Ngọc Thạch thuộc khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B phát hiện TRẦN HOÀI N đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 (một) gói nylon không màu, được hàn kín kích thước khoảng (03 x 1,5) cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá giấu trong cốp xe N đang điều khiển với mục đích để sử dụng. Khối lượng ma túy thu giữ của N qua giám định là 0,2712 gam là Methamphetamine. Hành vi của TRẦN HOÀI N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát N dân huyện B, tỉnh T truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo TRẦN HOÀI N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo TRẦN HOÀI N khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 22 giờ ngày 22/5/2023, TRẦN HOÀI N gọi điện thoại cho một người thanh niên không rõ họ tên hỏi mua ma túy về sử dụng và hẹn chỗ giao ma túy là khu vực ngã ba Cây Đào thuộc xã Hồng S, huyện B, tỉnh T, đến nơi TRẦN HOÀI N trả 300.000đ để mua 0,2712gam là Methamphetamine, trên đường đi về đến khu vực đường bê tông khu phố Tầm Hưng, thị trấn Ma Lâm, huyện B bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo TRẦN HOÀI N đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, ma túy là nguồn gốc gây ra tệ nạn xã hội khác làm mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về biện pháp tư pháp: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không phạt tiền.
[7] Đối bà Lê Thị Thu H là chủ sở hữu xe mô tô Vision, màu xám - xanh, biển số 86B3-xxxxx mà N lấy đi mua ma túy, bà H không biết và cũng không giúp sức gì cho N trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, bà H không đồng phạm với N về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại Điều 249 BLHS.
[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon đã cắt lấy mẫu cùng 0,2402 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 608, có chữ ký của giám định viên Đoàn Th Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T là vật chứng vụ án tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại Nokia 1280, màu đen dùng vào việc liên hệ mua ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo TRẦN HOÀI N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo TRẦN HOÀI N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: TRẦN HOÀI N 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/7/2023.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Th Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh T.
-Tích thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia 1280, màu đen.
Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2023.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo TRẦN HOÀI N phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2023/HS-ST
Số hiệu: | 160/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về