Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 160/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương 111Ở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 143/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 187/2023/TB-TA ngày 21/9/2023 đối với:

Bị cáo Đỗ Tiến D, sinh năm 1986. ĐKHKTT và chỗ ở: số F N, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đỗ Quang Đ và bà Hà Thị B. Có vợ là Diệp Thị Hoài T và có 02 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/6/2023 đến ngày 08/6/2023 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Hải Dương. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Việt H, anh Nguyễn Hữu K (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 05/6/2023, Đỗ Tiến D đi xe ôm từ nhà đến khu vực ngõ A N, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương thì xuống xe rồi đi bộ vào trong ngõ, gặp và mua của một người đàn ông 01 gói ma túy với số tiền 200.000đ để sử dụng cho bản thân. D cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái rồi đi đến khu vực trước cửa nhà số c N thì bị lực lượng Công an phát hiện kiểm tra. D đà thả gói ma túy xuống dưới đất cách chỗ D đứng khoảng 02m. Lực lượng Công an đã thu giữ tại vị trí dưới đất cách chỗ D đứng khoảng 02m 01 gói nilon màu trắng, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể dạng cục màu trắng.

Tại kết luận giám định số 294/KL-KTHS ngày 08/6/2023, Phòng K1 Công an tỉnh H kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ghi thu của Đỗ Tiến D gửi đến giám định có khối lượng 0,257g là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Đỗ Tiến D khai nhận thực hiện hành vi mua và cất giấu ma túy để sử dụng như đă nêu trên.

Tại Cáo trạng số 139/CT-VKSTPHD ngày 25/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố Đỗ Tiến D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (viết tắt: BLHS).

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Đỗ Tiến D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U. Xử phạt Đỗ Tiến D từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2023. Tịch thu tiêu hủy 0,222g ma túy loại Methamphetamine, 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Toà án nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo:

[1.1] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 05/6/2023, tại khu vực trước cửa nhà số C N, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Đỗ Tiến D có hành vi cất giấu trái phép 0,257g ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

[1.2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Lượng ma túy bị cáo cất giấu trái phép đề sử dụng là 0,257g Methamphetamine. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tâng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo; bố đẻ của bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng nên cần thiết phải áp dụng hình phạt từ có thời hạn đối với bị cáo để đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử sẽ xem xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị kinh tế lớn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: 0,222g ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vò phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Về tố tụng và các vấn đề khác: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp. Không xác minh được lý lịch của đối tượng chở bị cáo đi mua ma túy và đối tượng bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ đề xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Tiến D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt Đỗ Tiến D 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giừ 05/6/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,2222 ma túy loại Methamphetamine; 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 294/KL- KTHS của Phòng KI Công an tỉnh H.

Tình trạng và đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2023 giữa Công an thành phố H và Chỉ cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương

4. Về án phí: Buộc Đỗ Tiến D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 160/2023/HS-ST

Số hiệu:160/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về