Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 160/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 160/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 162/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Đình T, sinh năm 1962; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Số II, phường T, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/10; Con ông: Trần Đình C và con bà Lê Thị L; Vợ: Ngô Thị B; Có 02 con (con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1995); Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án chưa được xóa, cụ thể: Bản án số 559/HSST ngày 30/10/1997, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 72 tháng tù tội Mua bán trái phép chất ma tuý và phạt bổ sung 14.800.000 đồng (ra trại ngày 09/02/2003, chưa nộp án phí và tiền phạt bổ sung, chưa xoá án tích); Nhân thân: Ngày 12/08/1980, Tòa án nhân dân khu phố Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, hạn thử thách là 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản riêng của công dân (thời điểm phạm tội chưa đủ 18 tuổi- đã xoá án tích); Ngày 20/3/1981, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, tổng hợp hình phạt với bản án năm 1980 phạt bị cáo 02 năm tù (đã xoá án tích); Ngày 14/01/1984, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (đã xoá án tích); Ngày 30/9/1989, tại Bản án số 267/HSST Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (đã xoá án tích); Ngày 11/5/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý (ra trại ngày 11/12/2009, đã thi hành xong các quyết định của Toà án, đã xoá án tích). Theo Danh chỉ bản số 606 ngày 03/12/2020.

Bị can bị bắt quả tang ngày 02/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 02/12/2020, tại khu vực trước số 434 Trần Khát Chân, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, tổ công tác Y24/141 - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an Phường Phố Huế làm nhiệm vụ phát hiện Trần Kim C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen, BKS:

30Z5 - 0xxx, chở Trần Đình T ngồi sau có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe kiểm tra. Quá trình dừng xe, T xuống xe và bỏ chạy. Khi T chạy đến đầu ngõ 424 Trần Khát Chân thì bị ngã. Cơ quan công an đã tiến hành kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi áo khoác bên phải T đang mặc 01 túi nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng, tại chỗ, T khai đó là ma túy heroine, T mua để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác đã thu giữ của T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 415.000 đồng; thu giữ của Trần Kim C 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen đã qua sử dụng, BKS:

30Z5 - 0xxx.

Tại bản Kết luận giám định số: 10608/KLGĐ-PC09 ngày 10/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: "Chất bột màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Heroine, khối lượng 15,667 gam ".

Tại cơ quan công an, Trần Đình T khai nhận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 02/12/2020, T đi bộ tới khu vực đầu ngõ 272 Trần Khát Chân - Hà Nội mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy Heroine với giá 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Sau khi mua được ma tuý, T ra khu vực gầm cầu vượt Trần Khát Chân - Hà Nội, thuê Trần Kim C (là hàng xóm cũ của T) chở T đi về hướng Kim Liên - Hà Nội. Khi C điều khiển xe máy chở T đi đến khu vực trước số 434 Trần Khát Chân, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị Cơ quan công an yêu cầu dừng xe, kiểm tra. Do sợ bị cơ quan công an phát hiện cất giấu ma tuý trong người nên T đã xuống xe bỏ chạy thì bị bắt giữ.

Trần Kim C khai phù hợp với nội dung sự việc và lời khai của Trần Đình T.

Tại bản cáo trạng số 145/CT-VKS- HBT ngày 13/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố Trần Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Trần Đình T giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng. Bị cáo thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Trần Đình T từ 07- 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 15,667 gam ma túy loại Heroine. Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng và số tiền 415.000 đồng. Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại lời nói sau cùng, Trần Đình T đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết đinh tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 02/12/2020, tại khu vực trước số 434 Trần Khát Chân, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Trần Đình T đã có hành vi tàng trữ trái phép 15,667 gam ma túy loại Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi ma túy đang là mối hiểm họa cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Ma túy không những là nguyên nhân hủy hoại sức khỏe, suy giảm giống nòi, gây suy thoái đạo đức lối sống, làm thiệt hại nền kinh tế mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm khác. Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng vì đã trực tiếp xâm phạm độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình lo lắng cho nhân dân.

[3] Về nhân thân: Năm 1997 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã xử phạt 72 tháng tù tội Mua bán trái phép chất ma tuý và phạt bổ sung 14.800.000 đồng theo Bản án số 559/HSST ngày 30/10/1997. Bị cáo ra trại ngày 09/02/2003, chưa nộp án phí và tiền phạt bổ sung nên án tích này chưa được xóa. Do vậy bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, là tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra từ năm 1980 đến năm 2007 bị cáo nhiều lần bị Tòa án có thẩm quyền xét xử về các tội Trộm cắp tài sản của công dân, Tàng trữ trái phép chất ma túy… Tuy các án tích này đã được xóa nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị cơ quan có thẩm quyền cải tạo giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Để trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và làm bài học, răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp, bản thân nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với Trần Kim C là người lái xe ôm chở T, C khai không biết T giấu ma túy trong người. Lời khai của C phù hợp với lời khai của T và các tài liệu chứng cứ đã thu thập tại cơ quan điều tra, cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với C trong vụ án này là có căn cứ.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T, cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải T đi xác định địa điểm mua ma túy và người đàn ông bán ma túy nhưng không xác định được, do vậy Cơ quan CSĐT - Công an Quận Hai Bà Trưng không có căn cứ xác minh, xử lý.

[6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 15,667 gam ma túy loại Heroine, đây là chất độc hại, Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 415.000 đồng thu giữ của T, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản cá nhân của T, không liên quan tới hành vi phạm tội nên trả lại cho T.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen, BKS: 30Z5 – 0xxx thu giữ của Trần Kim C, có số khung 465066, số máy 2217605, qua tra cứu không nằm trong dữ liệu xe tang vật, quá trình điều tra chưa làm rõ được chủ sở hữu hợp pháp nên ngày 20/04/2021 cơ quan CSĐT - Công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến chiếc xe máy trên để tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Trần Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Trần Đình T 07 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Trần Đình T.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 15,667 gam ma túy loại Heroine; Trả lại bị cáo Trần Đình T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 415.000 đồng.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2021 và Giấy chuyển tiền vào tài khoản ngày 19/3/2021).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136, Điều 331, 333, 337 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 160/2021/HS-ST

Số hiệu:160/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về