Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 160/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 160/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 166/2021/TLST-HS ngày 29/10/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm 1977 tại HN.

Đăng ký hộ khẩu thường trú tại Khu Y1, phường Y2, quận H, thành phố HN; trú tại khu T, phường A, thành phố HD, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C2 và bà Nguyễn Thị L; có vợ là chị Nguyễn Thị H và 02 con (con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011); tiền án: Không; tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 14/QĐ-UBND ngày 03/02/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương thời hạn 03 tháng kể từ ngày 03/02/2021 (chấp hành xong ngày 03/5/2021); nhân thân: Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục số 299/QĐ-UB ngày 06/3/2001 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Bản án số 190/2005/HS-ST ngày 20/5/2005 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/02/2007 và nộp án phí ngày 20/8/2005); bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021, chuyển tạm giam từ ngày 11/6/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương (Có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Văn V.

+ Anh Nguyễn Xuân H.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C là đối tượng có sử dụng chất ma túy loại Heroine. Khoảng 10 giờ ngày 09/6/2021, C đi bộ từ nhà ra khu vực nhà chờ xe buýt ở khu T, phường A thành phố HD, tỉnh Hải Dương chơi. Tại đây, C có gặp một nam thanh niên mới quen (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) nhờ C mua hộ 01 gói ma túy Heroine và đưa cho C 100.000đ. C đồng ý, đi xe ôm của một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đến khu vực cầu PL cũ, thành phố HD để tìm mua ma túy. Đến nơi, C xuống xe đi bộ mua của một người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy Heroine với số tiền 100.000đ rồi cầm trên tay phải đi ra chỗ người chở xe ôm. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi C đi bộ đến khu vực đầu đường PB A giáp với bờ đê sông T thuộc địa phận phường NC, thành phố HD, tỉnh Hải Dương thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Dương kiểm tra. Do sợ bị phát hiện có ma túy trong người nên C thả gói ma túy xuống đất. Tổ công tác đã thu giữ ngay sát vị trí chân C đứng 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, kích thước khoảng (1,5x1,5) cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Xuân H và anh Phạm Văn V.

Tại Kết luận giám định số 307/KLGĐ-PC09 ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn C gửi đến giám định khối lượng là: 0,183g (không phẩy một trăm tám mươi ba gam) là ma túy, loại Heroine.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm 0,123g (không phẩy một trăm hai mươi ba gam) ma túy loại Heroine; 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ. Đối tượng giám định được hoàn lại trong niêm phong số: 307/KLGĐ-PC09.

Tại Cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 28/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 14 (mười bốn) tháng tù đến 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,123 gam Heroine hoàn lại sau giám định và 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ được niêm phong trong phong bì số 307/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Kiểm sát viên và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 09/6/2021, tại khu vực đầu đường PB A giáp với bờ đê sông T thuộc phường NC, thành phố HD, tỉnh Hải Dương; Nguyễn Văn C có hành vi cất giấu trái phép 0,183 gam Heroine mục đích mua hộ cho người khác sử dụng thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố Hải Dương bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Lượng ma túy bị cáo cất giấu trái phép mục đích mua hộ cho người khác sử dụng ngoài ra không có mục đích nào khác là 0,183 gam Heroine; Heroine nằm trong danh mục I, STT 09 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý đối với bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về nhân thân bị cáo đã bị áp dụng đưa vào cơ sở giáo dục, bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa án tích. Đồng thời, bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số 14/QĐ- UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ngày 03/02/2021 của UBND phường Ái Quốc, thành phố Hải Dương. Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới bảo đảm việc răn đe và giáo dục bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do nhưng thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng: 0,123g Heroine và 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về tố tụng và các vấn đề khác: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

Không xác định được người nhờ bị cáo mua hộ ma túy và đối tượng bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,123 gam Heroine là số mẫu ma túy hoàn lại sau giám định và 01 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ được niêm phong trong phong bì số 307/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hải Dương.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 02/11/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 160/2021/HS-ST

Số hiệu:160/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về