TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 159/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 140/2023/HSST ngày 13/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2023/QĐXXST-HS ngày 16/11/2023 đối với bị cáo:
NGUYỄN VĂN S - Sinh năm: 1996; Tên gọi khác: V; Giới tính: Nam; Nơi sinh: B. Nơi cư trú: thôn 1, xã Hàm Đức, huyện B, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: 0/12. Nghề nghiệp: Không; Cha: Nguyễn Văn C (đã chết); Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1968, hiện ở thôn 1, xã Hàm Đức, huyện B. Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ ba. Tiền án: Ngày 07/12/2021, bị Toàn án nhân dân huyện B xử phạt 06 tháng tù giam về tội " Trộm cắp tài sản". Chấp hành xong hình phạt ngày 20/7/2022. Chưa xóa án tích. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện B từ ngày 30/4/2023. Bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1970 (vắng mặt) Địa chỉ Thôn 2, xã Hàm Đức, huyện B, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn S (V), sinh năm 1996, ở thôn 1, xã Hàm Đức, huyện B đang có tiền án về tội "Trộm cắp tài sản" chưa được xóa án tích và là đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ 40 phút ngày 18/02/2023, S mượn điện thoại di động hiệu mobell, màu đỏ của người tên Tí (chưa rõ họ tên, địa chỉ) nhà ở Dầu Bà Én thuộc thôn 1, xã Hồng Sơn gọi điện cho người tên Bé (không rõ họ tên, địa chỉ) qua số thuê bao 084961xxxx hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá về sử dụng thì được Bé đồng ý và hẹn S đến quán cà phê gần khu nhà thờ Hàm Thắng lấy ma túy. Sau khi hỏi mua ma túy, S đi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị H (Bông), sinh năm 1970 ở thôn 2, xã Hàm Đức, huyện B mượn xe mô tô biển số 86C1-xxxxx điều khiển đi đến nơi đã hẹn gặp Bé và đưa cho Bé 150.000 đồng, rồi Bé đưa lại cho S 01 gói nylon bên trong có ma túy (bà H không biết S mượn xe của mình để đi mua ma túy). Sau khi có ma túy, S cầm ma túy trên tay lái xe về lại Hàm Đức. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày 18/02/2023, S gặp Tổ Công tác Công an huyện B phố hợp với Công an thị trấn Phú Long, huyện B, tiến hành tuần tra trên tuyến QL1A thuộc khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B phát hiện Nguyễn Văn S đang điều khiển xe mô tô Wave màu đỏ, biển số 86C1-xxxxx đi trên đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe để kiểm ra. Khi S thấy có lực lượng Công an kiểm ra thì S dùng tay ném 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (01 x 2,5)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng xuống lề đường gần vị trí xe mô tô của S đang đứng thì bị tổ công tác phát hiện và thu giữ. S khai nhận, gói nylon trên là ma túy đá của S vừa mới mua của một người tên Bé ở Hàm Thắng với giá 150.000 đồng về để sử dụng. Khi thấy Tổ công tác kiểm tra, S sợ bị phát hiện nên đã ném gói nylon có chứa ma túy xuống đường.
Kết luận giám định số 212/KL-KTHS ngày 27/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận:
II. Đối tượng giám định:
Phong bì màu trắng, được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Quốc Th, Hồ Thành T, Lê Anh H, Nguyễn Quốc H cùng với dấu vân tay màu đỏ ghi " ngón trỏ phải của Nguyễn Văn S" và hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn Phú Long. Trong phong bì có: 01 (một) gói nylon hàn kín, kích thước (01 x 2,5)cm, bên trong gói nylon chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M);
...
V. Kết luận giám định:
Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,1487 gam; là Methamphetamine.
Hoàn lại đối tượng giám định: 01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.
Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý:
01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B là vật chứng vụ án. Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã ra quyết định chuyển vật chứng trên từ Cơ quan CSĐT Công an huyện B đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B bảo quản chờ xử lý.
01 điện thoại di động hiệu mobell màu đỏ. S khai nhận mượn điện thoại này của một người tên Tí (không rõ họ tên, địa chỉ) ở Dầu Bà Én thuộc thôn 1, xã Hồng Sơn, huyện B để gọi điện mua ma túy. Cơ quan CSĐT đã xác minh nhưng chưa xác định được người có tên Tí như trên nên Cơ quan CSĐT tiếp tục tạm giữ điện thoại trên để xác minh, làm rõ xử lý sau.
01 xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86C1-xxxxx, S khai nhận mượn xe trên của bà Nguyễn Thị H (Bông) để đi công việc rồi lấy đi mua ma túy bà H không biết. Qua làm việc, bà H khai nhận mua xe trên tại Phan Thiết vào năm 2021 với giá 2.500.000đ nhưng không có giấy tờ mua bán xe, giấy tờ xe thì đã làm mất. Qua tra cứu xe có biển số xe 86C1-xxxxx có nhãn hiệu NAORI, có số khung: VHTDCG0R4UM002876, số máy: HTYG150FMG4C402887 do ông Nguyễn Văn Kiên làm chủ sở hữu đến năm 2020 đã bị mất trộm là không trùng khớp với xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, có số khung: VPJOCG013PJ05251, số máy: VPJLIP50FMG052521. Do đó, Cơ quan CSĐT tiếp tục tạm giữ xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ và biển số 86C1-xxxxx để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số 148/CT-VKSHTB ngày 12/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn S từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên Công an huyện B; Viện Kiểm sát nhân dân huyện B và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn S khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện B, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 18/02/2023, Tổ công tác Công an thị trấn Phú Long phối hợp với Công an huyện B, tiến hành tuần tra trên tuyến Quốc lộ 1A, thuộc khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long phát hiện Nguyễn Văn S đang điều khiển xe mô tô Wave, màu đỏ, biển số 86C1-xxxxx đi trên đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành dừng xe để kiểm tra. Khi S thấy có lực lượng Công an đang tuần tra thì S dùng tay ném ra 01 gói ny lon không màu, hàn kín, kích thước (01x2,5) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng xuống đường nơi S đang đứng. Tổ công tác phát hiện lập biên bản thu giữ gói nylon trên và đưa S về trụ sở làm việc. Tại đây, S khai nhận đó là ma túy đá, S mua của một người tên Bé ở khu vực nhà thờ Hàm Thắng về để sử dụng. Khối lượng ma túy thu giữ của S qua giám định là 0,1487gam là Methamphetamine. Hành vi của Nguyễn Văn S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh B truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn S có tiền án chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội là tái phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn S khai báo thành khẩn ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt: Căn cứ tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo thấy rằng do có nhu cầu sử dụng ma túy nên ngày 18/02/2023, Nguyễn Văn S đến khu vực nhà thờ Kim Ngọc thuộc thôn Kim Ngọc, xã Hàm Thắng, huyện B gặp tên Bé mua 0,1487gam là Methamphetamine đi về nhà, trên đường đi đến khu vực khu phố Phú Trường, thị trấn Phú Long, huyện B bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn S đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, ma túy là nguồn gốc gây ra tệ nạn xã hội khác làm mất an ninh trật tự địa phương là nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra, bị cáo có tiền án bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không chịu từ bỏ thói hư tật xấu sống có ích cho xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về biện pháp tư pháp: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không phạt tiền.
[7] Đối với người tên Bé không rõ họ tên địa chỉ đã bán ma túy cho S và người tên Tí cho S mượn điện thoại để gọi mua ma túy theo lời khai của S. Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được người có tên Tí và Bé như S đã khai nhận. Do đó, Cơ quan CSĐT tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[8] Đối với bà Nguyễn Thị H (Bông) đã cho S mượn xe mô tô hiệu Wave, màu đỏ, biển số 86C1-xxxxx đi công việc nhưng S đã sử dụng đi mua ma túy, bà H không biết và cũng không giúp sức gì cho S trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, bà H không đồng phạm với S về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình Sự.
[9] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B là vật chứng vụ án tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S (tên gọi khác V) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Nguyễn Văn S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 30/4/2023.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 46; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 (một) gói nylon không màu, đã cắt lấy mẫu cùng 0,1291 gam mẫu M còn lại sau giám định: Được niêm phong trong phong bì số 212 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B.
Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2023.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 159/2023/HS-ST
Số hiệu: | 159/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về