TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 153/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 159/2022/HSST/TLST - HS ngày 24 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2022/QĐXXST – HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Lê Văn C, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Phố T, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Lê Văn A và bà Nguyễn Thị S; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 07 tháng 5 năm 2020 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính buộc bị cáo đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng (ngày 23/9/2021 chấp hành xong).
Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 20/01/2022 đến ngày 26/01/2022 chuyển tạm giam.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa. “ Có mặt”.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Huy B - Sinh năm 1969 “ Vắng” Địa chỉ: Phố Q, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17h25’ ngày 20/01/2022, tại trước cổng Công ty quản lý và xây dựng đường bộ 472, đường Quang Trung, phố Thịnh Hùng, phường Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa. Tổ công tác thuộc đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thanh Hóa, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ của Lê Văn C 03 gói giấy màu trắng, kích thước mỗi gói 0,5x2cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng, Lê Văn Chung khai đó là ma túy, mục đích mua để sử dụng.
* Tại bản kết luận giám định số 562/PC09 ngày 24/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,301g loại Hêrôin.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Lê Văn C khai nhận: Trước ngày bị bắt khoảng 3 đến 4 ngày, bị cáo không nhớ cụ thể, bị cáo đi đến khu vực giáp ranh giữa huyện Quảng Xương và huyện Nông Cống mua của một người nam giới không biết lai lịch, địa chỉ 03 gói ma túy với giá 300.000đ mục đích sử dụng, đến ngày 20/01/2022 khi đang trên đường tìm nới sử dụng thì bị Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật.
Tại bản cáo trạng số 110/CTr – VKSTPTH ngày 21 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá truy tố bị cáo Lê Văn Chung về tội “ Tàng trữ phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù; Đề nghị HĐXX xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên cách ngày bị bắt khoảng 3 đến 4 ngày, bị cáo đi đến khu vực giáp ranh giữa huyện Quảng Xương và huyện Nông Cống mua của một người nam giới không biết lai lịch, địa chỉ 03 gói ma túy loại Hêrôin có trọng lượng 0,301 gam với giá 300.000đ với mục đích sử dụng, đến ngày 20/01/2022 khi bị cáo đi đến trước cổng Công ty quản lý và xây dựng đường bộ 472, đường Quang Trung, phố Thịnh Hùng, phường Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa để tìm nơi sử dụng thì bị Công an thành phố Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật.
Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai trước đây bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy về với mục đích sử dụng của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma tuý gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.
[5] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy và đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp Cai nghiện bắt buộc, nhưng hết thời hạn chấp hành biện pháp Cai nghiện, bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn cố ý mua ma túy về để sử dụng điều đó chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, xem thường pháp luật, nên cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, từ năm 2007 đến năm 2009 bị cáo tham gia nghĩa vụ Quân sự nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Do bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước là phù hợp pháp luật.
[6] Về vật chứng: Toàn bộ số ma túy thu của bị cáo được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Xử phạt: Lê Văn C 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/01/2022.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì ma túy, được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Tỉnh Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 86/2022/THA ngày 07 tháng 4 năm 2022 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh hóa.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.
Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 153/2022/HS-ST
Số hiệu: | 153/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về