Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 31/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31/3/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh ngày 03 tháng 8 năm 1987 tại xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Bợ, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn Đệnh, sinh năm 1957 và bà Bùi Thị Nhuột, sinh năm 1958; Bị cáo là con thứ tư trong gia đình có 04 anh em; Vợ: Bùi Thị Hoa, sinh năm 1987; Con: có 02 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án: không, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 02/12/2022. Có mặt.

- Người chứng kiến:

+ Anh Bùi Văn H, sinh năm 1981; Nơi cư trú: xóm Bùi Bái, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Ông Bùi Văn H, sinh năm 1954; Nơi cư trú: xóm Bùi Bái, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 02/12/2022, Bùi Văn T đi bộ từ nhà ở xóm Bợ, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, ra khu vực công viên, đầu cầu tại Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình để đón xe buýt lên khu vực xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình tìm mua ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi Bùi Văn T đi đến xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình thì Tỵ xuống xe. Lúc này, Bùi Văn T nhìn thấy có một người đàn ông không quen biết có biểu hiện là người nghiện ma tuý nên Tỵ đến hỏi và mua được chất ma tuý của người này với số tiền là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Người đàn ông này bán cho Bùi Văn T 01 (Một) gói giấy bạc bên trong có chứa chất ma tuý. Sau khi mua được ma tuý của người đàn ông này, Tỵ cất giấu ma tuý vào túi quần trước, bên trái của Tỵ đang mặc và đón xe buýt để quay về nhà. Khi xe buýt đi đến đoạn đường thuộc phố Hữu Nghị, TT.Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình thì Bùi Văn T xuống xe để đi bộ về nhà tìm nơi sử dụng trái phép chất ma tuý. Đến khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 02/12/2022, khi Tỵ đang đi bộ tại đoạn đường thuộc xóm Bùi Bái, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần trước, bên trái của Tỵ đang mặc có 01 (Một) gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột dạng cục, màu hồng, đây là chất ma tuý của Tỵ vừa mua được tại khu vực xã Ngọc Mỹ, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình. Sau đó, Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng thu giữ được trên người Bùi Văn T.

Tại Kết luận giám định số: 351/KL-KTHS ngày 09 tháng 12 năm 2022 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột dạng cục màu hồng trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi "Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Bùi Văn T, sinh năm 1987, trú tại xóm Bợ, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình" gửi giám định có khối lượng 0,21g (Không phẩy hai mươi mốt gam) là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong danh mục IIC, số thứ tự: 247, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Trước Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Khối lượng chất ma túy thu giữ của Bùi Văn T là 0,21g (Không phẩy hai mươi mốt gam) ma túy, loại Methamphetamine. Sau khi giám định Cơ quan giám định hoàn lại 0,17 gam mẫu ma túy, loại Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì một mặt có ghi "Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ: Bùi Văn T, sinh năm 1987 - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 02/12/2022 tại xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình". Mép dán có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình, chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bùi Văn T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 10/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát trình bày lời luận tội. Nội dung luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Văn T từ 16 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn T tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định nên đề nghị không đề cập xử lý.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định được lưu giữ trong phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối hận về việc làm của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo trở thành người lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn T có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 02/12/2022; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định số 351/KL-KTHS ngày 09/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình; lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 02/12/2022 tại xóm Bùi Bái, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Bùi Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của bị cáo 0,21g (Không phẩy hai mươi mốt gam) ma túy, loại Methamphetamine. Mục đích Bùi Văn T tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác. Bùi Văn T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn T phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Bùi Văn T đã tàng trữ 0,21 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây nghiện làm hại cho sức khỏe, bị cáo nhận thức được những quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[4]. Về nhân thân: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, bị cáo nghiện ma túy đã mười năm, không thể tự mình từ bỏ được ma túy.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo và để bị cáo có thời gian cai nghiện, dứt bỏ chất ma túy trở thành người tốt có ích cho xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng…, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế khó khăn, bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích kiếm lời bất chính nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn T tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[9]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma túy thu giữ được của bị cáo Bùi Văn T là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[11]. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 02/12/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ của bị cáo Bùi Văn T.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2023 giữa Công an huyện Lạc Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn.

3. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về