Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Văn N, sinh ngày tháng năm 1994 tại xã Đ, huyện Y, tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn D, sinh năm 1962 và bà: Hoàng Thị Y, sinh năm 1968; Vợ: Hoàng Thị D, sinh năm 1991, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 43/2018/HSST ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 1 năm 03 tháng tù về tội "vận chuyểVăn Nng cấm" nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 02 năm 6 tháng. Đã chấp hành xong bản án ngày 12/12/2020; Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 17/02/2022, bị tạm giam từ ngày 23/02/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang- Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1962;

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh B- Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến:

1. Ông Lương Ngọc L, sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn P, huyện Y, tỉnh B- Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1970; Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn P, huyện Y, tỉnh B- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 10 phút ngày 17/02/2022, tại tổ dân phố Thành Chung, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Tổ công tác Công an huyện Yên Thế phối hợp với Công an thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế tiếVăn Nnh kiểm tra, phát hiện Hoàng Văn N, sinh năm 1994 ở Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, cho N giám sát vật chứng rồi đưa về trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ gồm có: Thu trong túi áo khoác phía trước bên phải của N đang mặc 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, đường viền màu đỏ bên trong đựng 06 (sáu) gói giấy bạc, trong đó có 05 (năm) gói giấy bạc đều có hai mặt màu trắng bạc bên trong đựng chất cục bột màu trắng (nghi là chất ma túy) và 01 (một) gói giấy bạc có mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng bên trong đựng chất cục bột màu trắng (nghi là chất ma túy) được niêm phong trong phong bì có kí hiệu “QT”; 10.000đồng; 01 (một) điện thoại di động mầu xanh đen đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì kí hiệu "QT1", 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 98L2-4275.

Tại Kết luận giám định số 310/KL-KTHS ngày 21/02/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột mầu trắng đựng trong 05(năm) gói giấy bạc có hai mặt mầu trắng bạc và 01(một) gói giấy bạc mặt ngoài mầu vàng, mặt trong mầu trắng được đựng trong 01(một) gói ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền mầu đỏ là ma túy, có tổng khối lượng 0,283 gam, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn N khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy.

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 17/02/2022, N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98L2- 4275 đi từ nhà đến Trung tâm Y tế huyện Yên Thế uống methadone. Sau khi uống methadone xong, N điều khiển xe mô tô một mình đi đến khu vực tổ dân phố Tân Quang, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tìm mua ma túy mục đích để sử dụng. Tại đây, N gặp một người đàn ông không quen biết đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang đứng ở ven đường. Qua nói chuyện, N biết người này bán ma túy nên N đã mua được 06 gói ma túy được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, viền mầu đỏ với giá 600.000đồng. N cầm xem và biết đó là 06 (sáu) gói ma túy Heroine nên đã đút vào túi áo khoác bên phải của mình đang mặc rồi đi về. Trên đường đi về nhà có một một người nam thanh niên lạ mặt xin đi nhờ xe về hướng huyện Yên Thế, N đồng ý cho đi nhờ. Khi đi đến đoạn đường thuộc tổ dân phố Thành Chung, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế thì người nam thanh niên bảo N đỗ xe cho xuống. Khi người nam thanh niên xuống xe bỏ đi thì N bị lực lượng Công an đến yêu cầu kiểm tra, N chấp hành việc kiểm tra. Quá trình kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.

Cùng ngày 17/02/2022, Cơ quan điều tra tiếVăn Nnh lấy mẫu (nước tiểu) xét nghiệm chất ma túy đối với Hoàng Văn N, kết quả: N dương tính.

Cơ quan điều tra đã cho N thực nghiệm điều tra động tác mua ma túy, nhận ma túy, cất giấu ma túy. Kết quả: N thực hiện thành thục các động tác.

Đối với người bán ma túy cho N ngày 17/02/2022, tại tổ dân phố Tân Quang, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, N khai khi mua ma túy thì người đàn ông này đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang nên N không xác định được đặc điểm nhận dạng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Quá trình điều tra Hoàng Văn N còn khai nhận: Ngày 16/02/2022, N đã sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà ở của mình tại thôn Đền, xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế. Ngày 08/3/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Hoàng Văn N.

Đối với vật chứng thu giữ quá trình điều tra đã chứng minh được: 01 xe mô tô biển kiểm soát 98L2 – 4275 là của ông Hoàng Văn D, sinh năm 1962 ở thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh B (là bố đẻ của N), ông D không biết N sử dụng xe để đi mua ma túy. Ngày 28/02/2022 Cơ quan điều tra đã Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho ông D. Ông D đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì. Đối với 01 điện thoại di động Nokia mầu xanh đen đã qua sử dụng và số tiền 10.000đồng là tài sản của Hoàng Văn N không liên quan đếVăn Nnh vi phạm tội đến nay N có nguyện vọng được xin lại.

Từ hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nêu trên của Hoàng Văn N, tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS-YT ngày 05/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã tuy tố bị cáo ra trước Toà án nhân dân huyện Yên Thế để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa công khai sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, như cáo trạng truy tố và nội D vụ án đã tóm tắt nêu trên, rất hối hận về việc làm của mình, thành khẩn khai báo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Hoàng Văn N từ 18 (Mười tám) tháng tù đến 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam bị cáo 17/02/2022.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy có ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của Giám định viên, đại diện Cơ quan trưng cầu giám định bên trong chứa chất ma túy là vật chứng của vụ án.

+ Trả lại bị cáo Hoàng Văn N số tiền 10.000đ (Mười nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số imei: 351546006700684 (và 01 sim trong máy), được niêm phong trong phong bì có ký hiệu "QT1" là tiền và tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo Hoàng Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo và mức án do kiểm sát viên đề nghị là có căn cứ và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình bị cáo thực hiệVăn Nnh vi phạm tội. Bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,283 gam ma túy Heroine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận cho bị cáo Hoàng Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây tác hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của con người, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, bản sắc văn hoá, thuần phong mý tục của dân tộc, phá hoại hạnh phúc gia đình, tác động nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta luôn trú trọng đấu tranh ngăn chặn. Hành vi phạm tội của bị cáo còn là mần mống của các loại tội phạm khác có thể xảy ra, ảnh hưởng tới lao động sản xuất, gây hoang mang dao động và làm bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và góp phần ngăn đe phòng ngừa chung. Xét về nhân thân: Bị cáo xuất thân từ thành phần dân lao động, có trình độ văn hóa lớp 9/12, có đầy đủ nhận thức và ý thức pháp luật về tác hại của chất ma tuý đối với con người, nhưng mắc nghiện ma túy nên đã thực hiệVăn Nnh vi phạm tội; đáng chú ý năm 2018 bị cáo đã bị kết án về tội vận chuyểVăn Nng cấm. Vì vậy, cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ để bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xét bị cáo sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, vì vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi lượng hình.

Đối với bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung để phạt tiền sung vào công quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

- Về vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy có ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của Giám định viên, đại diện Cơ quan trưng cầu giám định bên trong chứa chất ma túy là vật chứng của vụ án, cần tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 10.000đ (Mười nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số imei: 351546006700684 (và 01 sim trong máy), được niêm phong trong phong bì có ký hiệu "QT1" là tiền và tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, cần trả lại bị cáo Hoàng Văn N, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Hoàng Văn N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam bị cáo 17/02/2022.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy có ký hiệu “QT” có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của Giám định viên, đại diện Cơ quan trưng cầu giám định bên trong chứa chất ma túy là vật chứng của vụ án.

+ Trả lại bị cáo Hoàng Văn N số tiền 10.000đ (Mười nghìn đồng) và 01 (một) điện thoại di động Nokia màu xanh đen, đã qua sử dụng, có số imei: 351546006700684 (và 01 sim trong máy), được niêm phong trong phong bì có ký hiệu "QT1" là tiền và tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo Hoàng Văn N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về