Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 15/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Thanh Miện xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2022/HSST ngày 15 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1993 tại tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị R; Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 05/8/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, T đã chấp hành xong.

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01 ngày 10/3/2019 của Công an xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại Quyết định số 44 ngày 16/4/2019 của UBND xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 16/4/2019.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/12/2021 và 29/12/2021, chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Bà Nguyễn Thị D + Anh Trần Văn N.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 26/12/2021, tại đường Cánh đồng S thuộc khu B, thị trấn T, lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép trong lòng bàn tay phải 01 gói giấy bạc kích thước (1,5x1)cm, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận đây là gói ma túy loại Heroine của T cất giấu để sử dụng. Quá trình điều tra, T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 26/12/2021, T điều khiển xe moto BKS 34E1-256.96 đi từ nhà đến khu vực cầu T thuộc địa phận xã Đ, huyện G tìm mua ma túy mục đích để sử dụng. Khi đến nơi, T gặp một người đàn ông (Không rõ tên tuổi, địa chỉ) và mua 01 gói ma túy loại Heroine gói bằng giấy bạc, kích thước (1,5x1)cm, bên trong có chứa chất bột, dạng cục màu trắng, với giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy, T cất gói ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi đi xe về khu vực thị trấn T tìm nơi để sử dụng. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đến đường Cánh đồng S, thuộc khu B, thị trấn T, T dựng xe máy, tay phải cầm gói ma túy định tìm nơi vắng để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng và xe moto BKS 34E1-256.96.

Kết luận giám định số 96/KLGĐ-PC09 ngày 27/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy bạc được niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn T, gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,119 gam là ma túy, loại Heroine. Hoàn lại 0,078 gam ma túy, loại Heroine, 01 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định.

- Tại bản Cáo trạng số: 18/CT-VKS ngày 14 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

1. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố, trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 13 tháng tù đến 16 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 26/12/2021.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Tịch thu cho tiêu huỷ: 0,078 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

2. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ ngày 26/12/2021, tại khu vực đường Cánh đồng S thuộc khu vực B, thị trấn T, huyện T, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,119 gam Heroine trong lòng bàn tay phải, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy; Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên đã cố ý vi phạm.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Khi xem xét, quyết định hình phạt, HĐXX nhận thấy:

- Bị cáo không có tiền án; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Như vậy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, phạm vào loại tội phạm nghiêm trọng, thể hiện ý thức coi thường pháp luật; Bị cáo có 01 tiền sự, có nhân thân xấu nên HĐXX cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, bị cáo đang bị tạm giam nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,078 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định là những vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần bị tịch thu và cho tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe moto BKS 34E1-256.96 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của ông Nguyễn Văn H (bố đẻ bị cáo). Ông H không biết bị cáo sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho ông H là phù hợp.

- Quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ người bán ma túy cho T nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 13 (mười ba) tháng tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ: 26/12/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu huỷ: 0,078 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định, 01 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định.

Vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục T hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. (Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/3/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Miện và Chi cục T hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).

4. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về