Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 151/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 143/2023/TLST- HS ngày 01/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2023/QĐXXST- HS ngày 15/12/2023 đối với bị cáo:

Lương Văn L, sinh năm 2000 tại tỉnh Nghệ An; Nơi đăng ký NKTT: Bản N, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn T và bà Vi Thị T1; vợ: Lương Thị V A; con: có 1 con, sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/9/2023, chuyển tạm giam từ ngày 04/10/2023 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 -Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Nam. Vắng mặt có gửi bản bào chữa đến Tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Trương Văn H, sinh năm 1971; Vắng mặt.

2. Ông Trương Văn X, sinh năm 1955; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 25/9/2023, Lương Văn L đi bộ từ phòng trọ đến đường N thuộc tổ 8, phường , thành phố P, tỉnh Hà Nam tìm mua ma túy để sử dụng. Trên đường đi L gặp và nói chuyện một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết nhân thân, lai lịch. Trong lúc nói chuyện với người đàn ông này L hỏi có ma túy không thì bán cho L mấy trăm, người đàn ông đồng ý nên L đưa cho người đàn ông số tiền 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), người này cầm tiền rồi đưa lại cho L một túi nilon màu trắng có kẹp nhựa viền màu đỏ bên trong có năm viên nén hình tròn màu đỏ rồi bỏ đi. L biết đó là ma túy cần mua nên cầm và cất vào túi quần bên phải trước rồi đi bộ về phòng trọ để sử dụng. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày khi L đang đi bộ trên đoạn đường N thuộc tổ 8, phường L, thành phố P thì bị tổ công tác của Công an phường Q thành phố P phát hiện nghi vấn kiểm tra, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng có kẹp nhựa, viền màu đỏ, bên trong chứa năm viên nén hình tròn màu đỏ được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01.

Ngày 26/9/2023, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Văn L tại tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 381/KL-KTHS ngày 29/9/2023, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu viên nén trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,501 gam loại: Methamphetamine” Tại bản cáo trạng số 149/CT-VKS-PL ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Lương Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Lương Văn L và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố bị cáo Lương Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Lương Văn L từ 24 đến 30 tháng tù, được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo được trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa;

Bản luận cứ người bào chữa đề nghị: Nhất trí về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo; Đồng thuận với đề xuất về tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo của bị cáo mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ nên nhận thức pháp luật bị hạn chế; Bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện nuôi con nhỏ mới bốn tuổi thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Thể hiện sự khoan hồng của pháp luật cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa và đề nghị xét điều kiện kinh tế rất khó khăn để miễn phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Lương Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa về hành vi phạm tội, nhất trí với bản bào chữa của trợ giúp viên pháp lý và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm trở về gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là những người làm chứng, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt và công bố lời khai là đúng quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lương Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội để kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/9/2023, tại đoạn đường N thuộc tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Lương Văn L đang cất giữ trái phép khối lượng 0,501 gam Methamphetamine trong túi quần bên phải phía trước L đang mặc với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Q, thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố và luận tội đối với bị cáo Lương Văn L tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự lần đầu phạm tội nên Hội đồng xét xử cũng cân nhắc tình tiết này khi lượng hình.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số thuộc vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ, hiện là lao động chính trong gia đình thuộc hộ cận nghèo, đang nuôi con nhỏ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự an toàn trong xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm và hành vi vi phạm pháp luật khác, gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo chính bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng. Song xét bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích kiếm lời, thuộc hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác của vụ án:

- Nguồn gốc số ma túy đã thu giữ: Quá trình điều tra L khai mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể; gặp ở đường N thuộc tổ 8, phường L, thành phố P. Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phủ Lý tiến hành xác minh nhưng không xác định được người đàn ông có đặc điểm như Lương Văn L khai. Do vậy không có đủ căn cứ để làm rõ nguồn gốc số ma túy cũng như người bán ma túy để xử lý trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và tài sản đã thu giữ:

Đối với số ma túy loại: Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 681/KTHS là vật cấm tàng trữ, lưu hành do vậy cần tịch thu tiêu hủy cùng toàn bộ bao gói hoàn trả sau giám định trong phong bì niêm phong QT01.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 và Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lương Văn L phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lương Văn L 27 (hai mươi bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ (ngày 25/9/2023).

3. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại: Methamphetamine trong 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi :”Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 681/KTHS.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 30/11/2023).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lương Văn L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 151/2023/HS-ST

Số hiệu:151/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về