TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 150/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2023/HSST ngày 01/12/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2023/QĐXXST-HS ngày 06/12/2023, đối với bị cáo:
NGUYỄN MINH M - sinh năm: 1992; nơi sinh: tại tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp Th Th, xã Ph L, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M - sinh năm 1963 và bà Lê Thị H - sinh năm 1963; vợ Ngô Thị Thu V – sinh năm 1992 và có 01 người con 01 tuổi; tiền án, nhân thân: Không.
Tiền sự: Ngày 22/5/2023, bị Công an xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định số 03/QĐ-XPHC.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/10/2023 đến ngày 06/11/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phú. (Có mặt)
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn M - sinh năm 1963. (có mặt) Địa chỉ: Ấp Th Th, xã Ph L, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
2. Bà Nguyễn Thị H (Nguyễn Thị Lan H) - sinh năm 1987. (có mặt) Địa chỉ: Ấp Th Th, xã Ph L, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 27/10/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên M sử dụng Facebook có tên “Nguyễn Minh M” liên hệ với tài khoản Facebook có tên “T V” đặt vấn đề mua 200.000 đồng ma túy loại Methamphetamine thì T đồng ý và giao dịch mua bán tại đường hẻm thuộc ấp P, xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, T giao cho M một gói ma túy đá kích thước 01x03cm được đựng trong một gói thuốc lá hiệu Saigon. Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 28/10/2023 tại ấp Th Th, xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, sau khi mua được ma túy, M điều khiển xe mô tô biển số 60H1 – A0 chạy về nhà nhằm mục đích sử dụng thì bị Công an xã P kiểm tra hành chính, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Minh M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tang vật thu giữ:
- 01 gói ni lông hàn kín trong suốt, kích thước 01cmx03cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng cất giấu trong 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Saigon.
- 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave màu xanh lá cây, biển số 60H1 – A0.
Công an xã P phối hợp cùng Trạm y tế xã P xét nghiệm nhanh chất ma túy trong người Nguyễn Minh M cho kết quả dương tính với ma túy, loại Methamphetamine.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã tiến hành niêm phong 01 gói ni lông hàn kín trong suốt, kích thước 01x03cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và ra Quyết định trưng cầu giám định theo đúng quy định của pháp luật. Kết luận giám định số 2413/KL-KTHS ngày 03/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1006 gam, loại: Methamphetamine.
Tại Cáo trạng số: 170/CT-VKSTP-ĐN ngày 23/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Nguyễn Minh M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố và không bổ sung gì thêm.
Tại phiên tòa, sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Minh M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh M từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2023.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ký hiệu số 2413/KL-KTHS, ngày 03/11/2023 có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại sau giám định.
Đối với xe mô tô biển số 60H1 - A0 là của ông Nguyễn Văn Mỹ (cha ruột bị cáo M) làm chủ sở hữu, khi bị cáo M mượn xe mô tô biển số 60H1 - A0 sử dụng vào mục đích mua ma túy và ông M không biết. Đề nghị, Hội đồng xét xử trả lại cho ông Nguyễn Văn M xe mô tô biển số 60H1 - A0.
Đối với 01 điện thoại Oppo màu trắng là của bà Nguyễn Lan H (chị ruột bị cáo M) làm chủ sở hữu, khi bị cáo M mượn để sử dụng nhưng sau đó dùng để liên lạc mua ma túy. Bà H không biết việc M sử dụng vào mục đích mua ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bà H 01 điện thoại Oppo màu trắng.
Về vấn đề khác: Qúa trình điều tra, bị cáo khai nhận mua ma túy đối tượng tên T ở xã P, huyện Tân Phú. Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng T, sẽ tiếp tục điều tra khi làm rõ được xử lý sau.
Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.
Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: “Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn M không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới và khai nhận ngày 27/10/2023, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 01 gói nylon ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1006 gam trong gói thuốc lá nhằm mục đích sử dụng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử, nhận thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn M là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ, cất giấu trái phép chất ma túy có thành phần là Methamphetamine là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Để có mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[4] Về tiền án: Không có.
[5] Về tiền sự, nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự cụ thể: Ngày 22/5/2023, bị Công an xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định số 03/QĐ- XPHC.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[8] Với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo; trên cơ sở xem xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[9] Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định bao gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu số 2413/KL-KTHS, ngày 03 tháng 11 năm 2023 có dấu hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại 0,0809 gam.
- Đối với xe mô tô biển số 60H1 - A0 là của ông Nguyễn Văn M (cha ruột bị cáo M) làm chủ sở hữu. Ông M không biết bị cáo M sử dụng xe mô tô biển số 60H1 - A0 làm phương tiện đi mua ma túy nên trả lại cho ông Mỹ xe mô tô 60H1 – A0 hiệu Honda Wave màu xanh lá cây.
- Đối với 01 điện thoại Oppo màu trắng là của bà Nguyễn Lan H (chị ruột bị cáo M) làm chủ sở hữu. Bà H không biết việc bị cáo M sử dụng điện thoại vào mục đích mua ma túy nên trả lại cho bà Huyên 01 điện thoại Oppo màu trắng.
[10] Về nguồn gốc ma túy: Qúa trình điều tra, bị cáo M khai nhận mua ma túy đối tượng tên T ở xã P, huyện Tân Phú. Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng T, sẽ tiếp tục điều tra khi làm rõ được xử lý sau là phù hợp.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[13] Quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
- Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự.
- Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 28/10/2023).
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định bao gồm: 01 (một) phong bì ký hiệu số 2413/KL-KTHS, ngày 03 tháng 11 năm 2023 có dấu hình tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong có chứa chất ma túy loại Methaphetamine còn lại 0,0809 gam.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn M 01 xe mô tô biển số 60H1-A0, hiệu Honda Wave màu xanh lá cây.
Trả lại cho bà Nguyễn Lan H 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/12/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 20/12/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2023/HS-ST
Số hiệu: | 150/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về