Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 150/2021/HS-ST NGÀY 12/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 145/2020/TLST-HS ngày 19/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2021/QĐXXST-HS ngày 04/05/2021 đối với:

Bị cáo: Trịnh Quốc B, sinh năm 1989; Nơi đăng ký HKTT: Thôn K.Q, xã Y.V, huyện G.L, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Văn C sinh năm 1968 và bà Phạm Thanh H sinh năm 1970; Vợ, con: chưa có.

Tiền án: Tại bản án số 31/2018/HSST ngày 13/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện G.L, thành phố Hà Nội xử phạt B 15 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong bản án.

Tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/02/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 0 giờ 10 phút ngày 06/02/2021 tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, Trịnh Quốc B đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của B 04 gói nhỏ bên ngoài được bọc một lớp giấy màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 219/KLGĐMT-PC09 ngày 08/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 04 gói nhỏ đều bọc ngoài bằng giấy màu vàng, có khối lượng 0,6831 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 82/CT-VKS-TS ngày 19/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Trịnh Quốc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thường xuyên sử dụng ma túy Heroine từ năm 2018 bằng hình thức chích vào cơ thể. Khoảng 21 giờ ngày 05/02/2021 bị cáo bắt xe buýt đi từ thị trấn Y.V, huyện G.L, thành phố Hà Nội đến phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, bị cáo xuống xe đi bộ vào khu phố T.M, phường Đ.B mua 200.000 đồng ma túy Heroine của một nam thanh niên không quen biết. Bị cáo đang đi tìm nơi sử dụng thì bị bắt giữ.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trịnh Quốc B từ 21 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/02/2021. Phạt bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào hồi 00 giờ 10 phút ngày 06/02/2021 tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh Trịnh Quốc B đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy heroine có khối lượng 0,6831 gam để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trịnh Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác như giết người, cướp tài sản…. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, đã bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong Bản án nhưng chưa được xóa án lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân không có mục đích lợi nhuận, điều kiện, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án này còn có người thanh niên đã bán ma túy cho B nhưng B không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, làm rõ khi nào có đủ căn cứ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136 và Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Trịnh Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc B 22 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2021.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm B thi hành án.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 150/2021/HS-ST

Số hiệu:150/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về