Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 149/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 149/2021/HS-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1978; tên gọi khác: Không; nơi sinh: TN, tỉnh Nam Định; ĐKHKTT và nơi cư trú tại: Xóm MĐ, xã TĐ, huyện TN, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; giới tính: Nam; con ông: Phạm Ngọc T, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2; có vợ Lương Thị C (Đã ly hôn); có 01 con; tiền án: Ngày 24-5-2019 Tòa án nhân dân thành phố NĐ xử phạt 21 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 22-9-2020 (Chưa được xóa án tích); tiền sự: Ngày 08-12-2020 Công an xã NP thành phố NĐ, xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05-4-2021 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố NĐ; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Anh Vũ Tiến S, sinh năm 1972, địa chỉ: Số 1 đường B3, phường CN, thành phố NĐ (Vắng mặt)

2. Anh Phạm Văn L, sinh năm 1977, địa chỉ: Số 1 đường NCT, phường CN, thành phố NĐ (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 05-4-2021, tổ công tác Công an phường PĐP, thành phố NĐ làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 234 đường ĐXB, phường CN, thành phố NĐ phát hiện Phạm Văn T đang điều khiển xe máy BKS: 18E1-398.38 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra T đã thả từ trên tay trái xuống đất 01 gói nhỏ nilông màu đen, mở kiểm tra bên trong có gói bằng giấy bạc màu vàng chứa bột dạng cục màu trắng (Phạm Văn T khai là gói Heroin của mình vừa mua để sử dụng). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng, đưa Phạm Văn T và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường PĐP, thành phố NĐ lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoải ra còn thu giữ của Phạm Văn T 01 xe máy BKS: 18E1-398.38 và 01 Giấy đăng ký mang tên Phạm Văn T.

Bản kết luận giám định số 450/GĐKTHS ngày 09-4-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Phạm Văn T được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng mẫu: 0,129 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05-4-2021, Phạm Văn T điều khiển xe máy BKS: 18E1-398.38 đi một mình từ nhà đến ngõ nhỏ (không nhớ số ngõ đường PBC, thành phố NĐ gặp và mua của một người thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói Heroin với giá 100.000 đồng, T cầm trên tay trái và điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến trước cửa số nhà 234 đường ĐXB, phường CN, thành phố NĐ thì bị phát hiện bắt giữ.

Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho Phạm Văn T, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố NĐ chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với chiếc xe máy BKS: 18E1-398.38, sau khi xác minh Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố NĐ xác minh, chủ xe là bị cáo Phạm Văn T.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 140/CT-VKSTPNĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Phạm Văn T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 27 tháng tù đến 33 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bi ̣cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; trả lại bị cáo chiếc xe máy và Đăng ký xe máy mang tên Phạm Văn T nhưng bảo lưu để thi hành án.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 05-4-2021, Phạm Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,129 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ tại khu vực trước cửa số nhà 234 đường ĐXB, phường CN, thành phố NĐ.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Văn T đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy điṇh tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.3] Về hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội vì vậy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố. Xét bị cáo có nhân thân xấu nên ấn định mức hình phạt như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ.

[3.4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng; bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy bị thu giữ trong vụ án được niêm phong trong phong bì niêm phong số 450/GĐKTHS là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Đối với chiếc xe máy BKS: 18E1-398.38 do bị cáo sử dụng đi mua ma túy mục đích sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên được trả lại cùng Giấy đăng ký của xe mang tên Phạm Văn T.

[5] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 27 tháng tù (Hai bẩy tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 05-4-2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T chiếc xe máy, biển kiểm soát: 18E1-398.38, số máy JA36E0897280, số khung RLHJA3657LY023268 và Giấy đăng ký xe biển kiểm soát 18E1-398.38 có số 029042 mang tên Phạm Văn T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 450/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Nam Định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng và tài sản ngày 18-5-2021).

3. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo Phạm Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 149/2021/HS-ST

Số hiệu:149/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về